Hiển thị các bài đăng có nhãn ARTS. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn ARTS. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 19 tháng 2, 2013

CẤU TRÚC MẢNG TRONG HỘI HỌA

Trong hội họa nói chung, bố cục được xem như là tổng thiết kế cấu tứ và sắp xếp các yếu tố thị giác. Bố cục bao hàm nhiều nhân tố đối lập cùng với những tác dụng tương hỗ, hình và nền, sáng và tối, mặt phẳng và hình khối, góc nhìn và dẫn hướng, động thái và tĩnh thái Để có được một bố cục hợp lý, việc tổ chức sắp xếp các mảng chính phụ, mảng trống,... có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trong khuôn khổ bài viết này tôi không có tham vọng bàn luận kỹ đến bố cục của tác phẩm mà chỉ nêu lên một số suy nghĩ về cấu trúc của mảng trong sáng tác hội họa.
1. Quan niệm về mảng
Trên mặt phẳng của một bức tranh, nếu để nguyên vẹn một màu trắng của giấy hay vải toan để vẽ thì ta có thể gọi đó là mảng trống. Nếu ta chấm lên đó một chấm thì có thể gọi đó là điểm. Nếu tiếp tục chấm nhiều điểm vào đó thì ta có thể gọi đó là một mảng được tập hợp bởi nhiều điểm. Tương tự như vậy, ta có một tập hợp là nét gồm một mảng được cấu thành bởi các nét.
Theo từ điển thuật ngữ mỹ thuật phổ thông, một lượng màu nào đó chiếm diện tích nhất định trên mặt tranh, tạo thành một mảng riêng, phân biệt rõ rệt với các mảng màu xung quanh nó… thì đó được gọi là mảng màu. Sự phân biệt này có thể do độ đậm nhạt, nóng lạnh của màu sắc hoặc về nội dung hình thể trong tranh. Khi nói đến mảng màu, người ta thường chỉ các mảng màu lớn. Tuy nhiên, trong các mảng màu lớn, có chứa đựng các mảng màu nhỏ hơn. Trong tranh đen trắng thì đó là những mảng màu mang các sắc độ khác nhau của đen và trắng.
Các nét, hình và điểm, khi được tổ chức, sắp xếp một cách có ý thức, sẽ tạo nên một hình hoặc một khối. Như vậy, trong một mảng có thể có một hoặc nhiều hình, tập hợp của các nét và điểm và ngược lại, hình hoặc khối có thể là tập hợp của một hoặc nhiều mảng. Qua các lập luận trên, có thể đưa ra một quan điểm riêng của tôi về mảng như sau: Mảng là sự cấu thành của một hoặc nhiều hình, khối, cùng sự tham gia của các tập hợp của điểm, đường nét tạo nên.
Một bức tranh được hình thành trên cơ sở của nhiều mảng tập hợp lại. Sự sắp xếp, tổ chức của các mảng, qua sự sáng tạo của họa sĩ, đã để lại cho nhân loại những kiệt tác với rất nhiều trường phái và phong cách khác nhau.
2. Quan hệ giữa mảng hình và nền
Trong tự nhiên, không tồn tại mối quan hệ giữa hình tượng và bối cảnh, giữa hình và nền. Khi thị giác con người tập trung vào một điểm, họ dễ dàng coi mọi thứ xung quanh là bối cảnh và môi trường. Chính vì vậy, các họa sĩ lợi dụng sự giới hạn của thị giác, làm điểm nổi rõ lên thành hình, những cái còn lại thì xử lý thành nền. Để khống chế phạm vi hoạt động của thị giác, bối cảnh của hội họa, về cơ bản, đều bị khoanh lại trong giới hạn. Một số nhà tâm lý học đã phân định hình và nền như sau: “Hình có tính nhô nổi, mật độ cao, có cảm giác đầy chặt, có hình dạng rõ ràng, có đường bao hoặc đường ranh giới... Nền có tính lùi lại sau, mật độ thấp, không có cảm giác đầy chặt, hình dạng tương đối rời rạc, không có đường ranh giới cố định”(1).
Khi độ đậm nhạt của hình và nền gần như nhau thì sự phân biệt là đường chu vi, nếu đường chu vi cũng không rõ lắm thì phải dựa vào tác dụng của tính ngưng tụ của hình (tâm lý học thị giác gọi hình có tính ngưng tụ là hình đóng kín). Do kinh nghiệm và tri thức thị giác của mỗi người ít, nhiều khác nhau, cho nên thời gian để nhận biết hình vẽ và kết quả không thể giống nhau, tính ngưng tụ sẽ là mấu chốt trong việc thức tỉnh tín hiệu được lưu trữ của người đó.
Tính ngưng tụ của hình thông thường có hai loại tình huống: dẫn dắt thị giác liên kết các hình rời rạc, phân tán thành đường chu vi, thành chỉnh thể của hình; dẫn dắt thị giác liên hệ những phần chủ chốt thành mảng để bổ sung thêm hình thể.
Nhìn chung, từ góc độ nghệ thuật, tính ngưng tụ chỉ là tính năng tất yếu có của hình tượng nghệ thuật bên cạnh tính thuyết minh và giá trị thẩm mỹ. Nhiều tác giả không theo đuổi việc diễn tả thực hình thể, nhưng nhấn mạnh được đặc trưng điển hình của nó, ngôn ngữ hội họa biểu đạt được tinh thần của hình thể thông qua việc sắp xếp, cấu thành tác phẩm nghệ thuật.
Tính ngưng tụ của hình trong hội họa còn thể hiện thông qua màu sắc, đường nét, độ đậm nhạt, diện tích mảng hình, chất liệu, mật độ của hình,... từ đó tạo nên tỷ trọng, sự nặng nhẹ của hình thể trong tranh. Nếu xử lý đúng lúc, đúng chỗ các yếu tố trên thì các mảng hình sẽ ăn nhập hài hòa với phần nền và mang lại tính thẩm mỹ cao cho tác phẩm.
3. Cấu trúc mảng
Bất kỳ một tác phẩm nào muốn được làm rõ nội dung, chủ đề mà tác giả cần diễn đạt thì việc cần thể hiện là phần chính và phần phụ. Phần chính cần phải là phần trọng tâm và điển hình, phần phụ là phần hỗ trợ để phần chính thêm phong phú hơn và nổi bật trọng tâm hơn. Vì vậy, phần chính không thể quá lấn át phần phụ, và ngược lại, phần phụ cũng không được quá nổi bật mà làm mất đi trọng tâm (tức là lấn át phần chính). Các mảng chính, mảng phụ cần phải được phân biệt rõ ràng và có sự liên kết có tổ chức rõ rệt từ các mảng lớn, các mảng nhỏ, phần hình và khoảng trống, kết hợp với các mảng màu, các sắc độ, sự phân bố sáng tối, đặc biệt là hệ thống các mảng cho phù hợp với nội dung và cảm xúc của tác giả. Muốn để phần chính và phần phụ ăn nhập với nhau và mang lại hiệu quả thẩm mỹ, việc cân bằng thị giác là yếu tố quyết định.
Cân bằng thị giác
Sự cân bằng thị giác được tạo ra nhờ việc sắp xếp các hình thể mà mắt thường nhìn thấy được trên bề mặt của diện tích bố cục một cách hài hòa, hợp lý và ổn định; phải khái quát được diện tích đó, dù to hay nhỏ, như một tổng thể. Cũng vì thế, sự cân bằng thị giác còn được nhìn nhận như là sự cân bằng về trọng lượng. Một bố cục chỉ làm ta thỏa mãn khi các lực của nó được sắp xếp hợp lý. Bởi vì khi quan sát một hình thể, bao giờ chúng ta cũng phải xác định hình đó với không gian xung quanh, nói cách khác, đó là sự so sánh, liên hệ với không gian ấy để đo được các khối hình hai phía. Để cân bằng thị giác trong tranh, cần các yếu tố sau: thứ nhất, hình thể có trọng lượng lớn có thể cân bằng một hình nhỏ nhưng có đòn bẩy dài hơn, hay một hình có diện tích lớn hơn nhưng sắc độ mờ nhạt hơn so với nền thì cũng bằng một diện tích nhỏ hơn nhưng có độ đậm nhạt nổi hơn nó (tương quan hình - nền). Thứ hai, độ tương phản mạnh so với nền và xung quanh, tạo ra cảm giác nặng, nhẹ (2).
 Sau khi đã đạt được sự cân bằng về thị giác thì sức căng của bố cục cũng là vấn đề cần phải chú ý. Số lượng và chất lượng của hình và nền, với tỷ lệ to nhỏ, tương quan sáng tối, có ảnh hưởng rất lớn với vùng trống xung quanh và tạo sức căng cho toàn bộ kích thước bức tranh. Sắp đặt hình thể trong không gian sao cho bản thân chúng có mối tương quan mật thiết và hài hòa từ trung tâm đến các khu vực xung quanh. Đặc biệt lưu ý đến độ nhấn và khoảng trống đó là đối trọng giữa đầy và vơi, có ý nghĩa quyết định của một bố cục
Tổ chức sắp xếp mảng
Việc sắp xếp, tổ chức các mảng, hình, khối, độ đậm nhạt, đường nét,... có một ý nghĩa vô cùng quan trọng để nhấn mạnh trọng tâm và ý đồ thể hiện của tác giả với nội dung cần truyền đạt. Sắp xếp các mảng chính phụ hài hòa là việc làm đầu tiên của họa sĩ.
Nói đến mảng chính (mảng trọng tâm) tức là nói đến mảng lớn chứa đựng các mảng nhỏ hơn, trong đó có thể có các hình thể, hình khối. Các mảng, khối ... được hình thành trên tổ hợp của các nét và của các điểm khác nhau. Tuy nhiên, các mảng đó phải tạo nên sự thống nhất, đồng bộ trong tổng thể bức tranh.
Sự thống nhất thể hiện ở các hình ở mảng chính rất cần tạo nên sự chặt chẽ về bố cục, sự sáng tạo trong cách tổ chức sắp xếp trong toàn mảng. Sự tổ chức sắp xếp bao gồm các mảng hình, các mảng đậm nhạt, sáng tối, các mảng đặc, khoảng trống, sự vận động của các hình, khối trong không gian, mật độ của các hệ thống nét và điểm, đặc biệt là chất của các mảng trong tổ chức của toàn hệ thống đó.
Trước khi sắp xếp, tổ chức các mảng lên mặt phẳng tranh, thông thường họa sĩ phải xác định mình vẽ trên khung hình loại gì, hình chữ nhật đứng hay nằm ngang, hình vuông hay hình tròn... Bên cạnh đó, anh ta cũng cần phải xác định mình sẽ vẽ tranh theo thể loại thấu thị gì để có phương án bố cục mảng cho hợp lý. Khi tổ chức sắp xếp mảng, rất cần chú ý đến các yếu tố sau:
Trước tiên là yếu tố cân đối. Tính cân đối được thể hiện bởi sự cân đối trong các mảng, hình khối, cân đối về đậm nhạt, về đường nét, về chất. Sự cân đối ở đây là sự tổ chức sắp xếp hợp lý về tỷ lệ giữa mảng chính với mảng phụ, giữa các khoảng trống, giữa các hình trong các mảng, giữa hình với hình, về tỷ lệ và cấu trúc của mảng sao cho thuận mắt. Phân bố độ đậm nhạt, màu sắc trong tranh cho nổi bật được nội dung cần diễn tả, đặc biệt là phải có sự liên kết hài hòa trong hệ thống sáng tối của bức tranh. Tổ chức hệ thống nét, hệ thống các điểm trong mảng cho phù hợp với tổng thể.
Tính cân đối về mảng được tổ chức sắp xếp bởi tỷ lệ các mảng chính với mảng phụ, với khoảng trống. Mảng chính cần có tỷ lệ vừa đủ để diễn tả về nội dung, không được to hay nhỏ quá và đặc biệt là phải đặt đúng vị trí sao cho hợp lý, hài hòa về bố cục.
Thứ hai là yếu tố tương phản, nói cách khác là sự đối lập. Trong hội họa, sự đối lập thường được thể hiện ở tỷ lệ giữa mảng chính và mảng phụ, giữa mảng với mảng, mảng với hình, giữa hình với hình, hình với nền, ở độ đậm nhạt, giữa mảng chính và phụ, với khoảng trống. Bên cạnh đó có thể còn có sự thay đổi, đối lập về phong cách tạo hình, tính cách nhân vật, về hình dáng các mảng, hình với nhau. Mảng hình cứng với mảng hình mềm, mảng chuyển động, mảng tĩnh,... Các mảng màu, độ nóng lạnh, về chất trong các mảng sẽ tạo nên tính tương phản trong tranh.
Sự đối lập để tạo nên sự chú ý hay nhấn mạnh trọng tâm sẽ là yếu tố rất quan trọng trong việc sắp xếp cấu trúc cho các mảng, tạo nên sự hài hòa trong tác phẩm. Tất cả sự đối lập trên khi được tổ chức sắp xếp hợp lý trong hệ thống của bức tranh sẽ tạo nên sự cân đối trong tranh và đặc biệt sẽ tạo nên bản sắc cũng như sự sáng tạo của người họa sĩ.
Thứ ba là yếu tố liên tục. Sự liên tục trong tranh là cần thiết, đây là cầu nối cho các mảng, các độ đậm nhạt, về đường nét, điểm trong tranh tạo nên sự liên kết vững chắc cho cấu trúc của mảng, tạo nên nhịp điệu của các mảng, sự vận động của khí trong tranh.
Thứ tư là yếu tố nhịp điệu. Sự thay đổi về tỷ lệ giữa các mảng, về hướng, về nét cứng, mềm, về tính chất tĩnh, động của các mảng sẽ tạo nên nhịp điệu. Sự phân bố về đậm nhạt, về tổ chức sắp xếp đường nét, điểm trong các mảng một cách hợp lý sẽ tạo nên cấu trúc mảng vững chắc và có những nhịp điệu trong hệ thống các mảng trong mặt phẳng tranh. Quan hệ giữa hình với hình, giữa hình với nền, quan hệ của hình với mảng, giữa mảng với mảng, giữa phần chính và phần phụ, quan hệ về tương quan, về sáng tối, về đậm nhạt,... được dựa trên các tính năng của từng loại khối và sự vận động của các hình, khối. Tiếp đó là sự liên kết giữa các khối và khoảng trống, sự kết hợp giữa các hình (vuông, tròn, tam giác) với nền. Cho nên việc sắp xếp, tổ chức các mảng nhỏ trong mảng chính cùng với bố trí đậm nhạt trong mảng chính và các mảng phụ cùng khoảng trống sẽ tạo nên tính nhịp điệu cho bức tranh.
Trong bố cục, yếu tố chính phụ luôn song hành với nhau. Mảng chính là phần trọng tâm để nhấn mạnh nội dung và chủ đề của tác phẩm nhưng mảng chính không hoàn chỉnh, có khi còn khô cứng, nếu không có sự bổ trợ của mảng phụ. Mảng phụ có thể là những mảng hình nhỏ hơn về diện tích đồng thời lực ngưng tụ ít hơn mảng chính, sắc độ cũng không rõ nét và ít sự biểu hiện hơn. Mảng phụ cũng có thể là các khoảng trống. Những khoảng trống này thực sự có tiếng nói trong tổng thể của một bức tranh. Một mảng phụ đẹp phải là một mảng phụ có tính liên kết và hỗ trợ với các mảng khác, đặc biệt là mảng chính. Sự cân đối của bức tranh khi và chỉ khi các mảng chính phụ cân đối với nhau về diện tích, về sắc độ, về đường nét, về chất, đặc biệt cần phải cân đối về sự ngưng tụ của hình thể được diễn tả trong tranh. Sự hỗ trợ của mảng phụ sẽ làm cho bức tranh rõ hơn về phần nội dung và làm cho tác phẩm hài hòa và ấn tượng.
Trong tác phẩm hội họa, những khoảng trống và cấu trúc của khoảng trống hết sức đa dạng. Những khoảng trống, hay gọi cách khác là không gian bao quanh chủ thể chính, là tập hợp các yếu tố phụ hoặc yếu tố giai thoại - có thể có một giá trị biểu cảm lớn hơn cả khoảng đặc (những yếu tố nhìn thấy, những hình thể hiện hữu). Thậm chí, những khoảng trống này cho ta một ý nghĩa sâu thẳm của bức tranh. Tuy nhiên, tất cả phụ thuộc vào vị trí mà những khoảng trống chiếm lĩnh trong khuôn hình và việc kết hợp khéo léo với các mảng hình trong tác phẩm.
Cấu trúc của các mảng cùng các hình tượng được đưa vào trong tác phẩm cần đơn giản và tinh luyện. Sự tổ chức, sắp xếp đó không những từng nét phải tinh tế, cẩn thận mà còn rất cần đến tạo hình biểu đạt chuẩn xác, sinh động. Sự sắp xếp, bố trí mảng rất cần đến sự phong phú song không rườm rà mà tinh giản, biểu đạt được nội dung thiết thực, thông qua các hình tượng điển hình. Khả năng thể hiện của nghệ thuật đối với thế giới mênh mông này là có hạn. Các nhà mỹ học cho rằng lấy một làm mười, chọn dùng những hình tượng hữu hạn để biểu hiện nội dung vô hạn, lời nói có tận cùng mà ý không tận cùng mới là cái đẹp nghệ thuật.
_______________
1. Vương Hoằng Lực, Nguyên lý hội họa đen trắng, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội, 2007, tr.44.
            2. Lê Huy Văn, Trần Tư Thành, Cơ sở tạo hình, Nxb Mỹ thuật, 2006, tr.31.

Nguồn: Tạp chí VHNT số 336, tháng 6-2012
Tác giả: Trần Thanh Liêm

Thứ Ba, 7 tháng 2, 2012

Leonardo da vinci ( 2 )


Bí mật ít biết về Leonardo da vinci

Mặc dù một số tuyệt tác của Leonardo như La Gioconda thì ai cũng biết, nhưng vẫn còn một số sự kiện ít được biết về cuộc đời và sáng tạo của ông.
Họa sĩ vĩ đại, nhà bác học, kỹ sư và nhà giải phẫu, một trong những đại diện xuất sắc nhất của nghệ thuật và khoa học thời Phục hưng, Leonardo da Vinci sinh năm 1452 tại làng Anchiano, gần thành phố Vinci, Italia.
Ngoài những bức tranh và tác phẩm điêu khắc lừng danh khắp thế giới, thiên tài Leonardo còn để lại những bản thảo viết tay về nhiều lĩnh vực kiến thức.
Ông nghiên cứu toán học, cơ học chất lỏng, địa chất và địa lý tự nhiên, khí tượng, hóa học, thiên văn, thực vật học, giải phẫu và sinh lý người và động vật.
Mặc dù một số tuyệt tác của Leonardo như La Gioconda thì ai cũng biết, nhưng vẫn còn một số sự kiện ít được biết về cuộc đời và sáng tạo của ông.
Chẳng hạn, mẹ của Leonardo là một nông dân bình thường, ông tiếp thụ học vấn tại nhà, chơi đàn lia điêu luyện, là người đầu tiên giải thích vì sao bầu trời có màu xanh, còn mặt trăng lại sáng thế, là người thuận hai tay và bị chứng đọc khó.
Leonardo da Vinci (1452-1519)
Leonardo da Vinci (1452-1519)
1. Leonardo sinh ra trong gia đình vị chưởng khế và điền chủ giàu có Piero da Vinci, mẹ ông là nông dân có tên Caterina. Ông được hưởng sự giáo dục tốt tại nhà, nhưng ông không được học một cách bài bản tiếng Hy Lạp và tiếng Latin.
2. Ông chơi điêu luyện đàn lia. Khi tòa án Milan xét xử vụ án của Leonardo, ông ra tòa với tư cách một nhạc công, chứ không phải như một họa sĩ hay nhà phát minh.
3. Có cơ sở để cho rằng, Leonardo là một người đồng tính. Khi ông học ở xưởng vẽ của họa sĩ lừng danh Verrocchio của xứ Florence, ông đã bị cáo buộc lạm dụng cậu bé làm mẫu cho ông. Tòa đã xử ông trắng án.
4. Leonardo Da Vinci đã mất khoảng 10 năm để vẽ đôi môi nàng Mona Lisa.
5. Theo một giả thiết, Mona Lisa cười là bởi nàng biết mình có thai, điều vẫn là bí mật với mọi người.
6. Theo một giả thiết khác, những nhạc công và những anh hề đã khiến Gioconda nở nụ cười trong khi nàng đang làm mẫu vẽ cho Leonardo da Vinci.
7. Các nhà khoa học của Đại học tổng hợp Amsterdam và các nhà khoa học Mỹ, khi nghiên cứu nụ cười bí ẩn của Gioconda bằng một chương trình máy tính mới, đã tìm ra kết cấu của nụ cười bí ẩn. Nụ cười của nàng Mona Lisa hàm chứa: 83% hạnh phúc, 9% khinh mạn, 6% sợ hãi và 2% giận dữ.
8. Một giả thiết nữa thì nói bức hoạ Mona Lisa chính là chân dung tự họa của Leonardo.
9. Leonardo rõ ràng là không để lại một bức chân dung tự họa nào có thể khẳng định chắc chắn là của ông được. Các nhà khoa học nghi ngờ bức chân dung tự họa nổi tiếng bằng chì nâu gạch của Leonardo (thường được cho là vẽ năm 1512-1515), vẽ ông lúc già chưa chắc là ông. Họ cho rằng, có thể đó chỉ là bức phác họa cái đầu của một sứ đồ trong bức “Tiệc ly”. Những nghi vấn rằng đây không phải là chân dung tự họa của Leonardo đã được nêu ra từ thế kỷ XIX, người mới đây lại nêu ra là một trong những chuyên gia lớn nhất về Leonardo - Giáo sư Pietro Marani.
10. Leonardo yêu thích nước: ông đã soạn các bản hướng dẫn về lặn dưới nước, sáng chế ra và mô tả thiết bị lặn, máy thở để bơi ngầm dưới nước. Tất cả những phát minh của Leonardo là cơ sở của trang bị lặn hiện đại.
11. Leonardo là người đầu tiên giải thích tại sao bầu trời có màu xanh. Trong cuốn sách "Về hội họa", ông viết: "Màu xanh của bầu trời sinh ra là nhờ có một tầng dày các hạt không khí được chiếu sáng ở giữa trái đất và màu đen ở bên trên".
12. Những quan sát đối với mặt trăng ở kỳ thượng tuần đã dẫn Leonardo tới một trong những khám phá khoa học quan trọng nhất - ông xác định được rằng, ánh sáng mặt trời phản xạ từ trái đất và trở về mặt trăng dưới dạng chiếu xạ thứ cấp.
13. Leonardo đã để lại các bản thiết kế tàu ngầm, cánh quạt gió, xe tăng, pháo, súng máy, các máy bay máy dệt, vòng bi, hệ thống kênh tưới đồng ruộng và phát minh ra dù…
14. Tháng 12/2000, vận động viên nhảy dù người Anh Adrian Nicolas ở Nam Phi đã nhảy từ một khí cầu ở độ cao 3000m bằng một chiếc dù làm theo bản vẽ phác thảo của Leonardo da Vinci.
15. Leonardo là người thuận cả hai tay, sử dụng tay trái và tay phải với sự khéo léo như nhau. Thậm chí người ra nói rằng, ông có thể viết đồng thời các văn bản khác nhau bằng hai tay khác nhau. Ông mắc chứng đọc khó - căn bệnh này, vốn được gọi là “mù lời nói”, được cho là có liên hệ với sự suy giảm hoạt động của não ở một vùng nào đó của bán cầu trái. Như ta đã biết, Leonardo viết, vẽ kiểu gương. Đa số các công trình trong các cuốn sổ ghi chép nổi tiếng của mình, ông viết bằng tay trái, từ phải sang trái theo kiểu viết chữ ngược. Nhiều người cho rằng, ông làm thế để giữ bí mật các nghiên cứu của mình. Còn theo một giả thiết khác thì lối viết ngược (mirror writing) là đặc điểm cá nhân của ông, thậm chí có ý kiến cho rằng, ông viết như thế dễ hơn là viết theo lối thông thường. Thậm chí còn tồn tại khái niệm “lối viết của Leonardo”.
16. Ông là người cầu toàn khi bỏ dở nhiều bức tranh và phá hủy phần lớn các tác phẩm của mình. Leonardo thích vay tiền, song không thích làm đến cùng công việc đã bắt đầu, vì thế ông thường xuyên đổi chỗ ở.
17. Leonardo là người ăn chay vì lý do nhân đạo. Ông thích mua lại những con chim bị nhốt để thả chúng ra. Ông từng nói: “Nếu như con người muốn vươn tới tự do thì tại sao anh ta lại giam giữ chim thú trong lồng?.. con người mới thực sự là chúa tể của muông thú vì con người đang giết hại chúng dã man. Chúng ta sống bằng cách giết hại những kẻ khác. Chúng ta là những nghĩa địa biết đi! Ngay từ khi còn trẻ, tôi đã từ bỏ thịt”.
18. Tỷ phú Bill Gates năm 1994 đã bỏ ra 30 triệu USD mua tập bản thảo Codex Leicester - một tuyển tập công trình của Leonardo da Vinci. Từ năm 2003, nó được trưng bày tại Viện bảo tàng Nghệ thuật Seatle.
19. Năm 2005, Viện bảo tàng Louvre đã bỏ ra 5,5 triệu USD để chuyển tuyệt phẩm trứ danh Gioconda treo ở gian chung sang một gian phòng trang bị đặc biệt dành riêng. Người ta đã dành cho bức tranh 2/3 gian Nhà nước (Salle des États) có tổng diện tích 840 m2. Gian phòng rộng mênh mông được cải tạo thành phòng trưng bày, trên bức tương ở phía xa treo tuyệt tác của Leonardo. Căn phòng được cải tạo theo đồ án của kiến trúc sư Peru có tên Lorenzo Pikeras trong gần 4 năm. Viện bảo tàng Louvre quyết định chuyển Mona Lisa vào gian riêng là bởi khi ở vị trí cũ, kiệt tác này bị mờ nhạt giữa những họa phẩm của các họa sĩ Italia khác, còn công chúng thì phải chen chúc xếp hàng để được chiêm ngưỡng bức tranh nổi tiếng.
Bức họa Mona Lisa nổi tiếng.
Bức họa Mona Lisa nổi tiếng.
20. Tháng 8/2003, kiệt tác “Đức Mẹ với chiếc cọc sợi" của Leonardo da Vinci, trị giá 50 triệu USD, bị đánh cắp khỏi lâu đài Drumlanrig của một trong những điền chủ giàu nhất Scotland, công tước Buccleuch. Vụ trộm cắp bức tranh này nằm trong danh sách 10 tội ác nổi tiếng nhất trong lĩnh vực nghệ thuật mà Cục Điều tra Liên bang Mỹ FBI công bố vào tháng 11/2005. Tháng 10/2007, cảnh sát đã thu hồi được bức danh họa. Sau đó, bức tranh được cho Viện bảo tàng nghệ thuật Quốc gia Scotland mượn và trưng bày.
21. Leonardo là họa sĩ đầu tiên xẻ các tử thi để tìm hiểu sự sắp xếp và kết cấu của các cơ. Leonardo ban đêm hay chui vào các nghĩa trang, đánh cắp xác chết để nghiên cứu giải phẫu học cơ thể người.
22. Là người cực kỳ ham mê chơi chữ, Leonardo để lại trong tập Codex Arundel một danh sách dài những từ đồng nghĩa chỉ dương vật của đàn ông.
23. Da Vinci cứ 4 giờ thì ngủ 15 phút, tức là ngủ 90 phút một ngày, thay vì 7-9 giờ như bình thường.
24. Trong số các đam mê của Leonardo có cả nấu ăn và nghệ thuật bày tiệc. Ở Milan, trong 13 năm, ông là người chủ trì các buổi yến tiệc cung đình. Ông đã phát minh một số cách thức nấu nướng để làm nhẹ công việc của các đầu bếp. Món ăn độc đáo mang tên Leonardo với thịt thái mỏng hầm với rau xếp bên trên rất được ưa chuộng tại các bữa tiệc cung đình.
25. Khi xây dựng các con kênh, Leonardo da Vinci đã tiến hành một quan sát mà sau đó đã đi vào ngành địa chất dưới tên ông với tư cách một nguyên lý lý thuyết xác định thời gian kiến tạo các tầng đất. Ông đã đi đến kết luận rằng, trái đất già hơn nhiều so với quan điểm được nêu trong Kinh Thánh.
Theo Đất Việt

Leonardo da vinci ( 1 )


Leonardo Da Vinci (1452 – 1519), biểu tượng của tinh thần Phục Hưng

Leonardo da Vinci là một thiên tài lỗi lạc về mọi phương diện. Ông khảo cứu mọi vấn đề, thấu triệt tất cả rồi nghĩ ra nhiều dụng cụ, máy móc và nhiều sáng kiến của ông đã đi trước nền Khoa Học thời bấy giờ khiến cho vào thời đại của ông, người ta chưa thể thực hiện được những sáng kiến đó. Leonardo da Vinci vừa là họa sĩ, vừa là nhà điêu khắc, kiến trúc sư, kỹ sư, nhà địa chất, nhà cơ thể học, nhà phát minh và nhà bác học, nói tóm lại ông là một nghệ sĩ lừng danh, một nhà tiền phong trong nhiều lãnh vực Khoa Học và Nghệ Thuật của thời kỳ Phục Hưng (the Renaissance), tức là một phong trào văn hóa bắt đầu tại nước Ý vào các năm 1300. Hai tác phẩm hội họa “Mona Lisa” và “Bữa Tiệc Cuối Cùng” (The Last Super) của Leonard da Vinci được xếp vào các bức danh họa tuyệt vời của thế giới.

Virgin and Child with St. Anne
 
Một trong những bức tranh đầu tiên của Leonardo: Thánh mẫu Benois (1478)


1/ Thuở thiếu thời.
Leonardo da Vinci chào đời vào năm 1452 trong một ngôi nhà đổ nát bên ngoài ngôi làng Vinci, gần thành phố Florence thuộc miền trung của nước Ý. Thiên tài này đã sớm mang lấy số phận hẩm hiu của một đứa con đẻ hoang do một người đàn bà tầm thường có tên là Caterina. Người cha của Leonardo là ông Ser Piero da Vinci, một chưởng khế miền Florence, đã không nhìn nhận đứa con rơi này để lấy một thiếu nữ giàu có, nhưng vì người vợ chính thức này không có con, ông ta đã bắt Leonardo về nuôi khi đứa bé lên 5 tuổi.
Hàng rào xã hội đã ngăn cách mãi mãi Leonardo với người mẹ đẻ và vì thiếu tình mẫu tử, cậu bé này chỉ còn biết sống cô độc để suy nghĩ một mình. Vì người cha đối xử với Leonardo một cách hờ hững, có thể nói vì bổn phận, nên cậu bé được tự do lang thang trên các sườn đồi, sống giữa cảnh thiên nhiên mà tự tìm lấy nguồn an ủi. Cậu bé Leonardo tha thẩn cả ngày vào việc góp nhặt rất nhiều viên đá cuội đẹp, các cây cỏ hiếm thấy hay tự làm ra các đồ chơi để giải buồn.
Tuy còn ít tuổi, Leonardo đã có những thiên khiếu đặc biệt, những tài vặt và cậu có thể viết chữ ngược cũng như viết xuôi, bằng tay phải cũng như tay trái. Những tập sách dùng tiếng La Tinh khó khăn và buồn tẻ đã không hấp dẫn được cậu bé, Leonardo chỉ thích tự tìm hiểu thiên nhiên, cũng vì thế mà tới tuổi 15, Leonardo vẫn còn mù chữ.
Leonardo quả thực có tài vặt ngay từ khi còn ít tuổi. Một người quen biếu cha cậu một cái mộc bằng gỗ cây vả. Leonardo xin cha cho mình được phép trang trí cái mộc này. Cha cậu bằng lòng. Leonardo bí mật giam mình trong phòng luôn 8 ngày, cậu vẽ trên tấm mộc hình một con quỷ rất hung dữ đang phun lửa. Vào lúc chập tối, giữa đống xác rắn rết, Leonardo đưa trình tác phẩm cho cha coi. Bức hình trông rất ghê sợ, lại ở trong một khung cảnh gớm ghiếc, đã làm cho người cha phải giật mình, lùi bước. Leonardo thích thú, cậu coi đây là sự thành công. Cha Leonardo liền đem chiếc mộc của con bán cho một tiệm kim hoàn lấy 10 ducats và người này bán lại cho Hầu Tước miền Milan lấy 300 ducats.
Sau lần khám phá thấy tài năng của con, cha Leonardo nghĩ rằng thằng nhỏ có thể kiếm ra tiền được. Ông ta liền cho cậu vào học nghề tại xưởng của một người thợ kim hoàn xứ Florence tên là Andrea del Verrocchio. Verrocchio là một bậc thầy về thủ công nghệ. Ông ta chuyên đúc đồng, nặn tượng, chạm chổ kim loại. Khi được theo học Verrocchio, Leonardo mới cảm thấy mình dốt nát và hối tiếc những thời gian lãng phí trước kia. Nhưng nhờ có thiên tài, cậu không những học được nghề mà còn phát minh ra nhiều thứ khác, chẳng hạn như chiếc đồng hồ chạy bằng nước, chiếc máy dát mỏng kim loại hay những cây đàn Luthe chế tạo bằng xương cá và xương xọ của các con vật. Leonardo cũng tìm hiểu thêm về thiên văn và toán học.
Ngoài tài khéo tay đã làm cho các bạn của cậu phải khâm phục, Leonardo còn có một khuôn mặt đẹp đẽ, một thân hình cường tráng và một sức mạnh đáng kể cho phép cậu bẻ cong một móng ngựa bằng sắt hay giữ chặt một con ngựa đang lồng lộn. Để thay đổi lối giải trí, Leonardo học thêm về hội họa. Vào một buổi chiều trong khoảng năm 1472, ông Verrocchio mắc bận, phải để dang dở bức họa “Lễ Rửa Tội của Chúa” (The Baptism of Christ). Trong khi thầy vắng nhà, Leonardo liền lấy cọ và sơn màu, hoàn thành bức tranh bằng hình ảnh một thiên thần đang quỳ gối. Lúc trở về, Verrocchio đã ngắm nghía tác phẩm rồi vì quá cảm phục Leonardo, ông ta liền từ bỏ giá vẽ.
2/ Thời kỳ hoạt động.
Thời gian học nghề chấm dứt, các học viên đã thành tài đều trở về quê để mở các tiệm thủ công. Riêng Leonardo lúc này là chàng thanh niên 21 tuổi, vì không có vốn, nên đành ở lại làm công cho ông Verrocchio. Trong thời gian làm thợ, Leonardo được các tu sĩ Scopetto đặt vẽ tác phẩm “Lễ Dâng của các người kính Chúa Hài Đồng” (Adoration des Mages). Do tìm hiểu quá nhiều phương diện, mọi công việc không thể làm xong nhanh chóng được khiến cho các tu sĩ phải hối thúc chàng họa sĩ nhiều lần, Leonardo mới hoàn thành tác phẩm. Quá cảm phục trước những nét vẽ tuyệt vời, các tu sĩ Scopetto bèn thưởng thêm cho Leonardo một thùng rượu chát.
Sau đó ít lâu, một cuộc âm mưu đã tố cáo chàng họa sĩ vi phạm thuần phong mỹ tục. Vụ án kéo dài trong 2 năm rồi chàng được tha bổng. Sự việc này đã khiến Leonardo cảm thấy cay đắng khi phải giao tiếp với những người khác. Thêm vào đó, các rối loạn chính trị khiến chàng quan tâm cả về kỹ thuật quân sự. Leonardo đã nghĩ ra cách chế tạo nào thứ đại bác mới, nào xe có 3 bánh để chở súng, nào dụng cụ gạt đổ thang của địch quân tựa lên tường thành... Nhưng không ai đặt làm những phát minh này khiến chàng buồn bã và phải từ bỏ quê hương, đi tìm thời vận.
Leonardo liền tìm tới Hầu Tước miền Milan là Ludovico Sforza, là người có thể cần tới các sáng kiến quân sự để chống nhau với người Pháp. Hầu Tước Ludovico là con người xảo quyệt, đã tiếm đoạt quyền hành bằng nhiều thủ đoạn trong khi đó dân chúng lầm than, đói khổ vì sưu cao, thuế nặng. Leonardo đã phải sống im lìm giữa bầu không khí ngột ngạt, đầy những âm mưu bè phái, đầy các phản bội và thù hận trong suốt 8 năm trường, vì lúc bấy giờ chiến tranh chưa xẩy ra nên Hầu Tước Ludovico chưa quan tâm tới các phát minh khoa học của ông. Các sáng kiến của Leonardo đã đi trước thời đại nhiều thế kỷ. Leonardo đã phác họa ra chiến xa, xe hơi, lựu đạn, súng phun lửa, hơi ngạt... và những dụng cụ chiến tranh này được trình bày bằng những đường nét mỹ thuật cổ xưa nhưng cũng nói lên sự nhìn xa, biết rộng của Leonardo da Vinci và chứng tỏ rằng ông là một nhà phát minh dồi dào các tư tưởng cải tiến.
Năm 1490, bệnh dịch hạch lan tràn tới miền Milan. Hầu Tước Ludovico chạy khỏi thành phố sau khi đã trao việc cứu chữa cho các nhà chiêm tinh. Nhân dịp này, Leonardo đã đề nghị những giải pháp vệ sinh và ông nghiên cứu một kế hoạch chỉnh trang đô thị. Theo ông, nên phân tán các thành phố lớn thành nhiều nhóm thị trấn chứa độ 30 ngàn người, và đường phố phải rộng bằng chiều cao của các tòa nhà. Ông còn trù liệu hệ thống cống rãnh để thoát nước và những phương pháp làm thoáng khí. Việc khảo sát ngành kiến trúc đã khiến ông nghiên cứu luật phối cảnh và môn quang học. Ông là người đầu tiên tìm ra thủy tinh thể khi khảo sát con mắt. Ông đã cải tiến rất nhiều máy móc, tiên liệu về máy may và trù tính cả sự thay thế nhân công bằng người máy. Nhưng tất cả óc sáng kiến lẫn tài ba lỗi lạc về ngành Hội Họa của Leonardo da Vinci đều không được Hầu Tước Ludovico quan tâm tới, Hầu Tước chỉ sai Leonardo thực hiện các công việc viển vông.
Trong khi Leonardo đang do dự sẽ từ bỏ nghề hội họa thì tu viện Santa Maria delle Grazie tại Milan, đặt ông vẽ bức họa “Bữa Tiệc Cuối Cùng” (The Last Super). Nhưng ông đã không vẽ xong sớm khiến cho vị tu sĩ quản đốc thúc dục. Bực mình, ông liền trả lời vì còn đang tìm kiếm một người mẫu để vẽ nhân vật Judas, và nếu vị tu sĩ bằng lòng ngồi làm mẫu thì bức họa mới mau hoàn thành. Từ đó không ai dám thúc dục Leonardo nữa. Khi được vẽ xong, bức họa này đã mang lại danh vọng vô bờ cho Leonardo da Vinci.
Sau đó ít lâu, Hầu Tước Ludovico đặt Da Vinci đắp một bức tượng cha mình đang cưỡi ngựa, một công việc khiến cho ông phải nghiên cứu tỉ mỉ cơ thể của loài ngựa và nhân dịp này, ông lại vẽ ra các kiểu chuồng ngựa mới rất tiện lợi và tối tân hơn.

Khi đã nghiên cứu về cơ thể loài ngựa xong, Da Vinci phác họa xây đắp một con ngựa dài 7 thước đang phi nước kiệu và đè chết một địch quân. Nhưng mẫu hình này không làm cho Hầu Tước Ludovico vừa ý và Hầu Tước dự tính dùng một nhà điêu khắc khác thực hiện. Da Vinci quá chán nản về thất bại này. Thế rồi một sự việc đã cứu vãn hoàn cảnh của ông. Vào tháng 1 năm 1491, Ludovico sẽ thành hôn với nàng Beatrice d’Este. Da Vinci được giao phó công việc vẽ các kiểu áo và trang hoàng các lâu đài và đại hí viện. Nhờ tài năng về máy móc, Da Vinci đã thành công rực rỡ trong một màn trình bày các thiên thần giáng phàm để ca ngợi Beatrice. Cả nước Ý nói về thành quả này. Da Vinci nhờ vậy được phép thực hiện lại bức tượng. Sau hơn hai năm trường, tấm màn phủ mẫu hình bằng đất được mở ra để công chúng ngắm coi vào năm 1493. Tất cả mọi người đều phải trầm trồ ngợi khen tác phẩm điêu khắc này và sau đó, Leonardo da Vinci đã trở thành một nhà tiên trị về một trường phái mỹ thuật mới. Nghệ sĩ tại khắp bốn phương đều bắt chước quan niệm mỹ thuật của Da Vinci. Thật là mỉa mai khi một nhà danh họa phải nhờ tài đạo diễn của mình mới trở nên nổi tiếng.

Nhờ thành công về điêu khắc, Da Vinci được Hầu Tước Ludovico quý trọng hơn. Ông được tăng thêm tiền trợ cấp nhờ đó có thể nghiên cứu thêm về hội họa, và sự học hỏi về cơ thể con người khiến ông giải phẫu các xác chết để tìm hiểu tường tận từng thớ thịt. Các bức họa thực hiện trong thời kỳ sống tại Milan đã khiến cho Da Vinci nổi danh và mọi người phải kính phục ông. Những tác phẩm của ông đã ảnh hưởng tới một số họa sĩ trẻ, kể cả Sandro Botticelli và Piero di Cosimo. Những nghệ sĩ này trở nên các nhà lãnh đạo của các họa sĩ thuộc thế hệ mới của miền Florence, rồi sau khi trở về nơi này lần thứ hai, các họa phẩm của Leonardo da Vinci còn ảnh hưởng tới một thế hệ họa sĩ trẻ khác bao gồm Andrea del Sarto, Michelangelo và Raphael.

Khi quân lính Pháp tràn qua dãy núi Alpes vào năm 1499, Ludovico Sforza thua trận và bị cầm tù. Vì không có ngươi che chở, Da Vinco đành từ bỏ Milan, sang thành phố Mantua, tại nơi đây ông đã vẽ một bức họa danh tiếng cho bà vợ của Hầu Tước Mantua tên là Isabella d’Este. Khi sống tại Venice, Da Vinci đã dâng hiến các phát minh về quân sự. Ông đã thực hiện cho Hầu Tước Cesar Borgia các áo lặn và người nhái để bảo vệ hải cảng. Ông còn nghiên cứu phép vẽ bản đồ, cách đào kênh và cách chế tạo tầu ngầm, nhưng phát minh lợi hại này đã khiến ông suy nghĩ và dấu kín.

Sau khi sống tại Venice một thời gian, Da Vinci trở về Florence vào năm 1500 và ông nghiên cứu máy bay. Người dân tỉnh này đã tưởng ông điên khùng khi ông mua rất nhiều chim rồi thả cho chúng bay đi, có ai biết rằng ông đang khảo sát cách đập cánh của loài chim. Rất tiếc rằng sức mạnh do chân và tay của con người không đủ mạnh và phát minh về máy bay do người đập cánh của ông đã không thành công.

Trong các năm từ 1513 tới 1516, Leonardo da Vinci sống tại Rome do lời mời của Hồng Y Giuliano de Medici, người anh em của Giáo Hoàng Leo X. Vào thời gian này, các nghệ sĩ lừng danh đang làm việc tại Rome như Donato Bramante trông coi xây dựng Giáo Đường St. Peter’s Basilica, Michelangelo lo việc nặn tượng và kiến trúc tại ngôi mộ của Giáo Hoàng Julius, và Raphael thực hiện các bức danh họa trong các căn phòng của Giáo Hoàng. Leonardo được mời vẽ các bản đồ và lo cải tạo vùng sình lầy Pontine gần Rome.

Từ thời kỳ Phục Hưng, các vua chúa đều mong muốn tập trung trong triều đình các nghệ sĩ và các học giả. Vào năm 1516, Leonardo da Vinci được Vua Francis I của nước Pháp mời qua Pháp làm việc. Ông đã cư ngụ trong lâu đài Cloux tại Amboise, gần Tours, trong 3 năm và được tặng danh hiệu là “nhà hoạ sĩ, kiến trúc sư và nhà cơ khí số một của nhà vua”. Ông được tự do khảo sát bộ môn nào ưa thích. Chính trong thời gian này, Leonardo đã phác thảo rất nhiều bản vẽ kiến trúc như xây dựng lâu đài, vườn hoa, nghiên cứu khoa học, cơ thể học, không thể học (aerology), thủy tĩnh học (hydrology)...

Leonardo da Vinci qua đời tại Cloux vào ngày 2 tháng 5 năm 1519 và được chôn cất trong phần đất nhà thờ của lâu đài này. Về sau trong cuộc Cách Mạng Pháp, nhà thờ Cloux cùng với các kỷ niệm quốc gia khác đã bị tàn phá và người ta không còn biết nắm xương tàn của nhà danh họa và bác học này ở đâu.
3/ Vài tác phẩm danh tiếng của Leonardo da Vinci.
  • Tác phẩm hội họa được nhiều người biết tới nhất của Leonardo da Vinci là bức “La Gioconda”, hay thường được gọi bằng tên “Mona Lisa”. 
 
                                            Tác phẩm Mona Lisa của Leonardo da Vinci

Có lẽ đây là bức chân dung danh tiếng nhất từ xưa tới nay. Mona Lisa có lẽ là người vợ trẻ của một nhà buôn lụa xứ Florence, tên là Francesco del Giocondo. Mona Lisa là tên gọi tắt của Madonna Lisa (qúy bà Lisa) còn tên La Gioconda có nghĩa là bà Giocondo.
 Mona Lisa (còn gọi là La Joconde) là một tác phẩm chân dung điển hình trong thế kỷ 16 bằng sơn dầu của Leonardo da Vinci trong thời Phục hưng Ý. Nó thuộc sở hữu của Chính phủ Pháp và treo trên tường trong Bảo tàng Louvre ở Paris, Pháp với tiêu đề Chân dung của Lisa Gherardini, vợ của Francesco del Giocondo. Nó có lẽ là bức tranh nổi tiếng nhất trên thế giới.
Phổ biến trong các tác phẩm chính của Leonardo Da Vinci và tiềm ẩn nhiều tác phẩm thiết kế của ông là Tỉ lệ vàng khoảng 1:1.618. Ông gọi tỉ lệ vàng là "tỷ lệ thần thánh".

                                                                 Phân tích tác phẩm Mona Lisa bằng toán học
 Bí mật tạo ra hiệu ứng quang học cho tác phẩm hội họa Mona Lisa của Leonardo da Vinci lần đầu tiên đã được giải mã bởi các nhà nghiên cứu người Pháp.
Các nhà khoa học đã phát hiện ra họa sĩ lừng danh này làm thế nào để đạt được hiệu ứng khói mang phong cách riêng của mình, được gọi là sfumato trên bức tranh, bằng cách tạo ra tới 40 lớp nước men cực mỏng không vượt quá 40 micro mét (tương đương với một nửa kích thước của một sợi  tóc) bằng ngón tay của mình.
Kỹ thuật sfumato - vẽ sắc thái mờ hòa vào nhau - cho phép da Vinci tạo ra đường nét hiệu ứng hư ảo, gây ấn tượng về độ sâu và bóng tối cho bức tranh.
 Các men được trộn với chất tạo màu khác nhau rất khéo léo sao cho chúng chỉ tạo ra màu sắc hơi mờ và nét tối ở miệng của Mona Lisa làm cho người xem khi nhìn bức tranh ở tư thế đối diện trực tiếp sẽ hầu như không thấy được nụ cười của nàng Mona Lisa.
Các nhà nghiên cứu cũng sử dụng quang phổ tia X huỳnh quang, một kỹ thuật “không gây thương tổn”, để nghiên cứu các lớp màu vẽ và thành phần hóa học của chúng. Nó cho thấy Leonardo da Vinci đã sử dụng các lớp màu vẽ và men ở rất nhiều cấp độ khác nhau tại những vị trí khác nhau trên khuôn mặt. Và khi các lớp men được làm khô tự nhiên theo năm tháng nó sẽ tạo ra hiệu ứng cho bức tranh như ngày nay.
Các nhà nghiên cứu cũng cho biết, họ nghi ngờ rằng chính họa sĩ đã dùng ngón tay của mình để đưa nước men lên bức tranh của ông bởi khi tìm hiểu, các nhà khoa học đã không tìm thấy dấu vết của chổi hay bàn chải dùng để tạo nên các đường nét trên bức tranh.
Leonardo được biết tới là một họa  sĩ sử dụng phương pháp Sfumato rất hiệu quả để các  đường nét trở nên liền mạch với nhau che mờ nét phác thảo bức họa. Các kỹ thuật này đòi hỏi độ chính xác rất cao và làm cách nào để đạt được điều đó từ lâu cũng đã rất lôi cuốn các chuyên gia nghệ thuật.
Các phát hiện mới được thực hiện bởi các nhà khoa học tại Trung tâm Khoa học "Laboratoire du Centre de Recherche et de Restauration des Musees de France" của Pháp và cơ quan Bức xạ  Xincrôtron (Synchrotron ) châu Âu.
Kết quả nghiên cứu cũng đã được công bố trên tạp chí khoa học Angewandle Chemie.  Tiến sĩ Philippe Walter, người đứng đầu nhóm nghiên cứu cho biết:
"Việc phân cấp các tông hoặc màu sắc từ sáng đến tối trong bức tranh này của ông hầu như là không thể phân biệt được".
"Cần phải nhấn mạnh tới lớp men mỏng. Nó là bằng chứng chứng tỏ người nghệ sĩ đã vô cùng khéo léo mới có thể tạo ra được những lớp men mỏng tới vậy. Hơn nữa, sự thay đổi chậm rãi và liên tục độ dày của các lớp men cũng ngụ ý rằng các lớp men đã được sử dụng nhằm đem lại hiệu quả tạo ra những khoảng tối tốt nhất cho bức tranh".
"Thậm chí cho tới tận ngày nay, kỹ thuật tạo ra được những lớp men mỏng như vậy vẫn còn là một thành tích đáng kính ngạc đối với các họa sĩ bậc thầy".
Cùng với tác phẩm Mona Lisa, nhóm nghiên cứu cũng đã tiến hành khám phá các tông màu hiển thị trong 6 tác phẩm nổi tiếng khác của Leonardo da Vinci là: "Virgin of the Rocks", "Madonna of the Carnation", "Saint John"," the Baptist", "the Virgin" "the Child".
Họ tìm thấy mỗi lớp men được phủ lên nhau chỉ dày khoảng 2 micro mét tức là mỏng hơn một sợi tóc của con người tới 50 lần. Ở khu vực màu cam tác giả đã sử dụng lớp men mỏng nhất, còn lớp men tối nhất được tìm thấy ở khu vực tối trong bức tranh với độ dày khoảng 55 micro mét.
Các hạt sắc tố màu đen và đỏ cũng đã được tìm thấy trong bức tranh nhưng chúng quá nhỏ và không thể phát hiện được bằng cách sử dụng các kỹ thuật phân tích thông thường.
Mona Lisa có thể không phải là bức họa đẹp nhất thế giới hay thậm chí là đẹp nhất của Leonard da Vinci, nhưng bất luận nó vẫn là bức họa nổi tiếng nhất.

  •   Tác phẩm với món tiền thù lao cao nhất của Da Vinci là bức họa lớn dang dở có tên là “Trận Chiến Anghiari” (the Biarattle of Anghi) vẽ trên tường trong phòng của tòa Đô Sảnh Florence, mô tả một trận đánh bằng kỵ binh với các chiến binh hung hãn trên lưng ngựa và các đám bụi mù, đây là cảnh đạo quân Florence đã đánh bại đạo quân Milan vào năm 1440.
Một số nhà khoa học đang nỗ lực tìm lại bức bích họa The Battle Of Anghiari của danh họa Phục hưng Leonardo da Vinci đã biến mất từ cách đây 450 năm. Tuy nhiên, phương pháp tìm kiếm bức tranh đang gây nên cuộc tranh cãi gay gắt giữa các sử gia nghệ thuật và những người thực hiện dự án tìm kiếm.
Năm 1503, Da Vinci được chính quyền Florence đặt vẽ bức bích họa mô tả một cuộc chiến giữa các đội quân của thành Milan và Florence xảy ra ở Anghiari khoảng 60 năm trước đó. Bức tranh này được da Vinci vẽ thử nghiệm bằng kỹ thuật sơn dầu, nhưng không thành công và ông đã bỏ dở tác phẩm. Tuy nhiên, nhiều nghệ sĩ đã chép lại họa phẩm này, trong đó có bức vẽ của họa sĩ Peter Paul Rubens (1577-1640) hiện đang được treo trong bảo tàng Louvre (Pháp). 
Năm 1543, Giorgio Vasari vẽ bức Battle Of Marciano In Val Di Chiana đè lên bức tranh dang dở của Da Vinci. Nhiều sử gia cho rằng bức bích họa của da Vinci vẫn còn nguyên vì Vasari, một trong những người rất ngưỡng mộ da Vinci, đã rất cố gắng “cứu” họa phẩm The Battle Of Anghiari chứ không làm mất nó khi vẽ chồng lên.
               
        Bức tranh The Battle Of Anghiari do họa sĩ Rubens vẽ, đang được treo trong bảo tàng Lourve, Paris (Pháp).
  • Nhiều người cũng ca tụng tuyệt tác phẩm “Bữa Tiệc Cuối Cùng” (The Last Super) vẽ trên tường của phòng ăn nơi tu viện Santa Maria tại Milan, nước Ý. Đây là cảnh bữa ăn cuối cùng của Chúa Jesus và 12 tông đồ, và Chúa mới cho biết có một người trong nhóm này sẽ phản lại Chúa.
Một Tông Đồ đã ra dấu như muốn hỏi :"Hãy cho chúng con biết Thầy phán về ai???"
Và cũng chính cái ra dấu đó làm khung cảnh bị chấn động.12 Tông Đồ gần như bị dồn lại hoàn toàn tự nhiên thành 4 nhóm 3 người một,liên kết với nhau bằng cử chỉ,dáng điệu.Họ lo lắng,hãi hùng,phẫn nộ và nghi kị lẫn nhau.

Thánh Pierre nóng nảy nhoài người về phía Thánh Jean thì thầm vào tai ông,điều này vô tình dẩy một Tông Đồ ra dàng trước,Vị này vẫn còn cầm trên tay một túi chứa 30 đồng bạc mà hắn vừa có được sau khi bán Chúa -hắn là Judas

Trong nhóm 3 người này,Judas không bị tách riêng ra nhưng hóa ra lại cô độc.Hắn trơ ra,không khoa tay,không hỏi han bàn tán như mọi người.Hắn khom mình về phía trước và ngước lên với sự nghi ngờ(hoặc giận dữ) :"Tại sao người lại biết ?!?".

Trái ngược lại với Judas là hình ảnh Chúa ngồi trầm tĩnh và ẩn nhẫn.Dường như ngài ngồi đây và chấp nhận cái chết đã được tiên đoán trước.Ngài không muốn tránh bỏ nó bỏi Ngài coi nó xảy ra là xứng đáng.Nếu một người Thầy không dạy được học trò,bị hắn bán rẻ thì cái Chết có lẽ còn dễ dàng hơn là Sống
 

The  Last Supper 1498
  Fresco, 460 x 880 cm (15 x 29 ft); Convent of Santa Maria delle Grazie (Refectory), Milan
"Bữa tiệc cuối cùng" có hai hình ảnh khác
 Ngày 27/7, trang web kênh truyền hình Mỹ CNN đăng tải lập luận của chuyên gia tin học Slvisa Pesci, cho rằng đằng sau bức danh họa "Bữa tiệc cuối cùng" có hai hình ảnh khác: Hình ảnh Chúa đang chúc phúc lành và hình ảnh một đứa trẻ nhờ hình phản chiếu của bức tranh trong gương. Theo quan điểm của Slavisa Pesci, trong phiên bản được in lên gương ta có thể thấy hình ảnh phía bên phải của Chúa hình như đang bế một đứa trẻ. Tuy nhiên, đến giờ nhiều chuyên gia, giáo sư vẫn chưa thể khẳng định lai lịch của đứa trẻ.
 Cơn sốt này nhắc lại những tranh cãi xung quanh cuốn best-seller Mật mã Da Vinci của Dan Brown. Trong sách, Dan Brown đã chỉ ra mối quan hệ bí mật giữa Chúa Jésus và Marie-Madeleine.
Giai ma Bua tiec cuoi cung cua Leonardo da Vinci


Khuông nhạc ẩn giấu sau bức hoạ
 Mới đây nhất, một nhạc sĩ kiêm kỹ sư tin học nổi tiếng của Ý lại vừa công bố phát hiện về những nốt nhạc ẩn đằng sau bức “Bữa tiệc cuối cùng” của danh hoạ Leonardo Da Vinci. Phát hiện này đang làm tăng thêm những khả năng về thiên tài thời kì Phục Hưng có thể đã để lại một đoạn nhạc có giai điệu buồn.
Đầu tiên, Pala đã phát hiện thấy một khuông nhạc 5 dòng chạy ngang qua bức hoạ. Thêm vào đó, cách bài trí bánh mì trong bàn ăn, kết hợp với tư thế bàn tay của Giê-su và the Apostles đều là những dấu hiệu tượng trưng cho mỗi nốt nhạc.
                            
                  
Theo Pala, phát hiện này cũng hoàn toàn phù hợp với những biểu tượng trong đạo Cơ Đốc, giữa bánh mì - biểu thị cho thân thể của Chúa và bàn tay - được dùng để ban phát thức ăn. Tuy nhiên, nếu chỉ có dấu hiệu về những nốt nhạc thì chưa đủ làm nên một giai điệu đúng nghĩa, cho tới khi Pala phát hiện ra điểm mấu chốt: khuông nhạc này phải được đọc từ phải sang trái – theo đúng cách viết của Leonardo.

Trong cuốn sách của ông mang tựa đề "La Musica Celata" ("The Hidden Music" - tạm dịch là “Giai điệu ngầm”), Pala đã mô tả chi tiết về hành trình tìm kiếm của ông về giai điệu trầm lắng ấn giấu sau bức danh hoạ.
  •    Một tác phẩm điêu khắc còn dang dở của Leonardo da Vinci là bức tượng khổng lồ một nhân vật cưỡi ngựa, được dựng lên để vinh danh Francesco Sforza, nhà sáng lập của triều đại Sforza. Nhà danh họa Da Vinci đã bỏ ra 12 năm trường để trù liệu bức tượng này. Sự chính xác về cơ thể của người và ngựa, các tỉ lệ chính xác và nét chuyển động khéo léo của bức tượng đã là mẫu mực của ngành điêu khắc trong thế kỷ 17.
Các sáng kiến, tài năng đa dạng và tầm hiểu biết rộng lớn của Leonardo da Vinci đã khiến cho người đời sau coi ông là một biểu tượng của tinh thần Phục Hưng.
 Sơ lược về Leonardo da Vinci (1452-1519)

 
-Ông là con một luật gia ở Florence-Italia

-Sinh tại làng Toscane da Vinci vào năm 1452.

-Xưởng vẽ đầu tiên ông theo học và làm việc đó là xưởng của Adrea del Verrochio tại Florence.Verrochio thời ấy đã nổi danh trong giới hội họa và điêu khắc Italia,bức tượng người anh hùng thành Venise - Bartolommeo Colleoni chính là hình mẫu "khuôn vàng thước ngọc" để các lớp hậu sinh sau này tạc lên những bức Đế Vương oai hùng.
-Ông thuận tay trái nên những ghi chép của ông đều viết ngược từ phải sang,phải dùng gương mới đọc được.

-Không chỉ có vốn hiểu biết sâu sắc về hội họa mà ông còn am tường các thể loại khác như kiến trúc,Âm nhạc,Sinh học,Toán học,Vật lý học.....Điều này thể hiện qua những bản ghi chép,những hình minh họa của ông đã được các môn đệ và người hâm mộ gì giữ.

-.Trong những ghi chép của ông người ta phát hiệ thấy năm từ "Mặt trời không di chuyển".Điều này chứng tỏ ông đi trước học thuyết của Copernic và Galileo một bước.Nhưng ông không bị là rầy rà như hai cụ trên vì ông ít xuất bản các ghi chép của mình(sợ bị coi là dị giáo... ) Kito:Mặt trời không di chuyển(đấy,tôi còn gan hơn lão khọm già này).

-Ông có rất ít các tác phảm hoàn thành trọn vẹn vì ông không thích vẽ theo đơn đặt hàng.Đang vẽ mà không hứng nữa thì cứ để đấy đã,tính sau.Hơn nữa ông chỉ cho phép xuất xưởng các tác phảm mà ông cảm thấy thực sự ưng ý nhất mà thôi.

-Đã ít như vậy mà cho đến nay các tác phảm của ông cũng chỉ tính trên đầu ngón tay.Bởi ông rất hay thí nghiệm các hóa chất tạo ra màu vẽ nên phần nhiều các bức họa của ông đều xuống màu và hỏng rất nặng.

-Đường lối tư duy trong tranh của Leonardo là sự đối lập luôn luôn tồn tại trong mọi vật thể.Cái đang sống và Cái đang chết,Cái gốc của Sự diệt và Sự sinh.

-Năm 1516,vua Pháp Francois I mời ông sang tịnh dưỡng tại Pháp và ông đã từ trần tại lâu đài Amboisr năm 1519

-Các tác phẩm của ông(không đầy đủ):
+ Bữa ăn tối cuối cùng(La Cène)
+ Nàng Mona Lisa(La Joconde)
+ Trang trí lâu đài Sala delle Asse
+ Thiết ké hoàn chỉnh nhà thời Saint Pierre

(ST )

Isaac Ilyich Levitan

Isaac Ilyich Levitan là họa sĩ tranh phong cảnh người Nga gốc Do Thái. Với những tuyệt tác như Mùa thu vàng hay Rừng bạch dương, Levitan được coi là một trong những họa sĩ nổi tiếng nhất của chủ nghĩa hiện thực ở thế kỷ 19.
Isaac Levitan sinh năm 1860 trong một gia đình nghèo ở thị trấn Kibarty, tỉnh Kovno (nay là Kaunas, Litva). Bố của Levitan là gia sư dạy ngoại ngữ, nên tuy nghèo nhưng thấy con đam mê hội hoạ, ông cố gắng tằn tiện để chu cấp cho con học hành đến nơi đến chốn.
Năm 1873, Levitan thi đỗ Trường Mỹ thuật và Kiến trúc Moskau Trường là một trong những cái nôi đào tạo họa sĩ danh tiếng ở nước Nga bấy giờ, Các họa sĩ bậc thầy lúc đó như Vasilii Perov, Aleksei Savrasov và Vasilii Polenov cảm phục tài của cậu học trò Levitan, đã giúp đỡ rất nhiệt tình. Sự dìu dắt, giúp đỡ, khơi nguồn của các thầy đã góp công lớn tạo nên phong cách sáng tác tranh phong cảnh của họa sĩ tương lai. Aleksei Savrasov là thầy giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự nghiệp sau này của Levitan.
Isaac Ilyich Levitan
(1860-1900)
Levitan học một năm lớp sao chép tranh (Kopierklasse), học tiếp lớp chủ nghĩa tự nhiên (Naturalismusklasse), rồi chuyển sang lớp tranh phong cảnh (Landschaftsmalersiklasse), Mới học được hai năm thì mẹ của Isaac mất (1875), cha ông thì lâm bệnh nặng .Cả gia đình Levitan lâm vào cảnh nghèo túng, bản thân Isaac Levitan thường xuyên phải nhịn đói hoặc ngủ lại trường. Do xuất sắc trong học tập nên Levitan nhận được học bổng cho hai năm cuối. Sức khỏe và tinh thần của Levitan đã bắt đầu giảm sút từ đó.
Levitan tốt nghiệp năm 1885. Tháng 3 năm 1877, hai tác phẩm đầu tiên của Isaac Levitan được triển lãm và được báo chí đánh giá cao. Bức tranh Ngày thu. của Isaac Levitan được nhà sưu tập tranh hàng đầu nước Nga là Pavel Mikhailovich Tretyakov mua . Mùa xuân năm 1884, Levitan tham gia vào cuộc triển lãm tranh lưu động của nhóm họa sĩ Peredvizhniki (nhóm họa sĩ lưu động) và đến năm 1891 thì trở thành thành viên chính thức của nhóm này cùng với các họa sĩ nổi tiếng khác như I. N. Kramskoi, K. A. Korovin.
Trong thời gian còn học ở Trường hội họa, Isaac Levitan kết bạn cùng các họa sĩ K. A. Korovin, M. V. Nesterov, kiến trúc sư Fyodor Shekhtel, họa sĩ N. P. Chekhov, nhà văn nổi tiếng A. P. Chekhov, sau đó Levitan và nhà văn Chekhov đã trở thành những người bạn thân thiết, Levitan thường đến nghỉ tại nhà Chekhov trong những giai đoạn khủng hoảng về tinh thần.
Levitan bộc lộ thiên hướng về tranh phong cảnh nông thôn hoặc thiên nhiên nước Nga. Những tác phẩm theo trường phái hiện thực của Levitan nổi tiếng với khả năng miêu tả chân thực vẻ đẹp của thiên nhiên Nga, đồng thời cũng truyền vào đó cảm xúc và tinh thần của tác giả. Có thể kể tới các bức tranh Mùa thu vàng miêu tả mùa thu ở vùng nông thôn Nga với sắc vàng chủ đạo, bức Rừng bạch dương vẽ lại những cánh rừng bạch dương Nga vào mùa xuân với sắc xanh chủ đạo hay bức Cái yên tĩnh vĩnh hằng miêu tả thiên nhiên hùng vĩ nhìn từ nghĩa trang thiên chúa giáo với nhà nguyện nhỏ bé nằm giữa một con sông nước Nga. Năm 1897, Levitan được bầu vào Viện hàn lâm nghệ thuật Nga và năm 1898 ông trở thành người phụ trách xưởng tranh phong cảnh của Trường đại học Mỹ thuật và kiến trúc Moskau . Sức khỏe của Levitan giảm sút, do ông thường xuyên bị viêm phổi và suy sụp về tinh thần, nhưng Levitan chưa bao giờ truyền tâm trạng u tối của mình vào trong các bức tranh phong cảnh, Tranh của Levitan đều mang màu sắc tươi tắn và miêu tả tuyệt vời vẻ đẹp của thiên nhiên nước Nga. Levitan qua đời ngày 4 tháng 8 năm 1900 khi mới 40 tuổi.
Những tác phẩm tiêu biểu của Levitan là :

Một ngày thu. Sokolniki (1879)
Levitan sớm bộc lộ sự cô đơn của mình trong tranh. Khi nhà sưu tập tranh nổi tiếng Tretyakov ngắm khá lâu và quyết định mua bức Một ngày thu. Sokolniki người ta bắt đầu biết đến chàng sinh viên trẻ Levitan. Con đường mùa thu trong công viên, lá vàng cô đơn càng cô đơn hơn với một bóng thiếu nữ lẻ loi bên đường, bộ trang phục màu đen của nàng càng dậy thêm nỗi buồn.

Rừng bạch dương (1885)
Tranh Levitan buồn nhưng màu sắc vẫn tươi sáng rực rỡ, bạn đã bao giờ thấy lá hát, thấy nắng reo múa trên cây và cảm giác yên tĩnh bất ngờ của rừng trưa? Đó là những gì tôi cảm nhận từ bức Rừng bạch dương của ông, đây cũng là một bức tranh tôi rất thích của Levitan.
 
Sau cơn mưa (1889)
Sau cơn mưa là một trong những bức tranh tôi rất thích của Levitan, ai có thể vẽ mặt nước tuyệt vời hơn ông đã vẽ trong bức tranh này. Bến nhỏ sau cơn mưa sáng rõ với mặt nước … tuyệt vời. Còn nhớ có một lần tôi đọc người ta viết về tranh của Levitan thế này: “trong một cuộc triển lãm, ông vẽ những bông hoa súng trong cái lọ sành mộc mạc, những cánh hoa căng mọng nước tràn trề sức sống, sống động đến nỗi một khán giả đã lại gần sờ vào bức tranh để xem nó là thật hay giả” – nói như vậy quả là không quá, nó hoàn toàn trùng khớp với cảm giác của tôi khi tôi xem bức Sau cơn mưa.
Sau này chính vì nguồn gốc Do thái mà ông bị Nga hoàng trục xuất khỏi thủ đô dù tài năng của ông đã nổi danh trong cả nước và bản thân Nga hoàng rất mến mộ ông. Một bức tranh khá nổi tiếng của Levitan đã mang lại giải thưởng cho ông trong thời gian này. Nó càng thể hiện rõ sự cô đơn của ông trong cuộc sống.


Buổi chiều Plese vàng (1889)
Buổi chiều Plese vàng là một bức tranh ấn tượng trong trí nhớ của tôi, Levitan yêu thích hoạ sĩ phong cảnh Pháp Corot, nhưng với tôi ông là hoạ sĩ phong cảnh vĩ đại nhất. Ông được đánh giá là hoạ sĩ diễn tả bầu trời, không khí và tâm hồn Nga sâu sắc nhất.


Nước sâu (1892)
Kỹ thuật vẽ mảng được thể hiện rõ nhất trong bức Nước sâu (1892). Làng quê Controley trong ráng chiều. Những rặng cây chìm vào bóng tối, in trên nền trời vàng rực. Bóng cây tối hẳn trên mặt nước phẳng lặng. Đêm thâm u khiến nước rêu thêm. Chiếc cầu tạm bắc ngang mời mọc, nâng bước chân người về. Nước Nga không thiếu cảnh hùng vĩ, choáng ngợp kiêu sa, song Levitan ưa chọn góc độ bình dị, thân thương của làng quê yên ả để gửi gắm cảm xúc, khiến người thưởng lãm phải chiêm ngưỡng, tâm niệm, lặng đi trong cảm xúc.

Từ 1892 tới 1895 Levitan đi dọc theo con sông dài Volga và vẽ được nhiều bức tranh phong cảnh đẹp của miền này. Có thể nói tranh của Levitan thẫm đẫm cảnh vật và con người Nga, tranh của ông Nga hơn bất kỳ một hoạ sĩ Nga nào khác nhưng nỗi cô đơn làm tranh ông thường vắng bóng người.


Đường Vladimirka (1892)
Vắng và vắng, đó là nỗi cô đơn luôn luôn mênh mang trong tranh của Levitan. Đường Vladimirka nhìn đã thấy mênh mang và buồn khôn tả, cả con đường rộng thênh thang, bầu trời mênh mang, mây xa tắp, đường chân trời nơi cuối đường, nó quá rộng, chỉ có một bóng áo đen của góa phụ côi cút trên đường – chỉ là cô đơn trong tranh ông. Vladimirka là con đường dẫn giải các tù nhân đi chôn vùi cuộc đời mình ở Sibêri giá lạnh, trong những lớp bụi đường kia như còn nghe tiếng xiềng xích va vào nhau.
Levitan dành được rất nhiều giải thưởng trong cuộc đời của mình, nhưng không tạo ra một trường phái nào cả. Về cuối đời Levitan càng u trầm hơn, sự hiểu nhẩm với người bạn thân nhất là nhà văn Sê-khốp đã khiến ông càng trầm lặng và buồn phiền.


Sự yên tĩnh vĩnh hằng (1893)
Thêm một nỗi buồn nữa: Sự yên tĩnh vĩnh hằng, nơi ngọn đồi rộng bao la giao hòa trời đất. Levitan là bậc thầy trong diễn tả không gian, chỉ một khuôn vải mà trải ra mênh mang cả trời, cả nước, cả đất, cả mây – ông đặt tên bức tranh này là Sự yên tĩnh vĩnh hằng quả không sai. Trên ngọn đồi cô đơn nóc nhà thờ cổ ẩn mình dưới tán cây, ngọn lửa nhỏ vẫn lặng lẽ sáng trong ô cửa nhỏ, bên cạnh dãy nghĩa địa xiêu vẹo những cây thánh giá. Tôi thực sự ngưỡng mộ cách mô tả không gian tuyệt vời trong bức tranh này.


Tháng ba (1895)
Tranh của ông tươi mới, giản dị mà đẹp mộc mạc như những làng quê và bầu trời mênh mang của nước Nga vậy. Cảm giác như tuyết trong bức tranh Tháng 3 đang lắc rắc tan dưới vó con ngựa buộc trước hiên nhà.

Nước mùa xuân (1986)
Rồi mặt nước mùa xuân không một chút xao động.


Yên tĩnh, 1898
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi và cô đơn của mình, Levitan đã vẽ lên rất nhiều tuyệt tác u buồn, những bức tranh u buồn nhưng lóe sáng.

Hồ, 1900
Levitan trút hơi thở cuối cùng vì bệnh lao phổi vào một ngày nắng đẹp, khi trong vườn hoa tử đinh hương đang tỏa hương ngào ngạt và trên giá vẽ của hoạ sĩ là một bức tranh rất rực rỡ, tươi sáng mang tên Hồ.


Mùa thu vàng (1895)
Bầu trời mùa thu trong trẻo, rừng bạch dương vàng rực trong nắng chiều, xa xa một cây bạch dương cô đơn soi bóng xuống dòng sông yên ả, mùa thu đang đến, một mùa thu rất Nga – đó là bức tranh nổi tiếng nhất của Levitan: Mùa thu vàng.
Thiên nhiên Nga, như một nhân vật, hiện thân của cái đẹp vĩnh hằng, sống động trong dân ca, trong thơ Pushkin, Lermontov, Esenin, cả trong những áng văn xuôi của Lev Tolstoy, Chekhov, trong âm nhạc Tchaikovski và trong tranh Levitan. Đó là thế giới của sắc màu thấm đẫm tâm hồn Nga đầy kiêu hãnh, trong sáng và mênh mông một nỗi buồn trắc ẩn. Ông không nhìn thiên nhiêu ở góc độ hào nhoáng, lạ lẫm mà bình dị, thân thương. Ai đã đặt chân lên đất nước Nga vào thu đều không khỏi ngỡ ngàng trước màu vàng choáng ngợp của rừng bạch dương. Nhiều góc độ hoành tráng hơn tranh vẽ. Levitan dừng lại ở cây bạch dương nhỏ, dòng nước nhỏ, cầu gỗ đơn sơ, những đống rơm lặng lẽ dưới trăng mờ... vì nó gần gũi, thân thương. Thiên nhiên Nga trong tranh ông không phải nàng tiên xa lạ, mà là cô hàng xóm đáng yêu, nặng lòng giao cảm.
Với sự bùng nổ công nghiệp của chủ nghĩa tư bản, khuôn mặt thiên nhiên Nga bị bóp méo, Levitan gắng công lưu giữ thiên nhiên thuần khiết trong tranh mình, cũng như Esenin hoài niệm về một làng quê yên ả. Cảm xúc bùi ngùi này dậy lên trong ta, giờ đây, khi về quê xa xa vắng bóng lũy tre làng...
Con người ngày càng ý thức về môi trường, càng thấy giá trị tranh phong cảnh của Levitan. Riêng đối với thiên nhiên Nga, tranh ông là chân dung trung thực, đầy biểu cảm.
                                                                                                                                             ( ST ) 






10 họa sĩ vĩ đại nhất thế kỷ 20


Pablo Picasso, danh họa người Tây Ban Nha, đứng đầu top 200 nghệ sĩ tạo hình lớn nhất thế giới thế kỷ 20 do tạp chí The Times, Anh, công bố. Cuộc bình chọn thu hút sự tham gia của 1,4 triệu người.
1. Pablo Picasso (1881 - 1973): 21.587 phiếu
Pablo Picasso.
Sinh ra tại Tây Ban Nha nhưng Picasso gắn bó nhiều hơn với nước Pháp. Cùng với Georges Braque, ông được coi là cha đẻ của trường phái Lập thể trong hội họa và điêu khắc. Sau khi qua đời, Pablo Picasso để lại di sản gần 50.000 tác phẩm nghệ thuật thuộc nhiều thể loại như tranh, điêu khắc, đồ gốm, ký phác thảo…
Tác phẩm "Les Demoiselles d'Avignon" (Những cô nàng ở Avignon).
2. Paul Cezanne (1939 - 1906): 21.098 phiếu
Chân dung tự họa của Paul Cezanne.
Thiên tài người Pháp, thuộc trường phái Hậu ấn tượng. Ông được coi là người nối nhịp cầu giữa Hội họa Ấn tượng thế kỷ 19 với Hội họa lập thể thế kỷ 20. Chỉ sống 6 năm trong thế kỷ 20 nhưng sức ảnh hưởng to lớn của Cezanne đã đảm bảo cho tên ông luôn xuất hiện trong danh sách những cây cọ vĩ đại nhất thế kỷ này. Hai danh họa Pablo Picasso và Henri Matisse đều thừa nhận, Cezanne chính là "bậc thầy" của họ trong nghệ thuật hội họa.
Bức "The card Players" (Người chơi bạc) của Cezanne.
3. Gustav Klimt (1862 - 1918): 20.823 phiếu
Họa sĩ Gustav Klimt.
Họa sĩ người Áo, là cây cọ xuất chúng của trường phái Tượng trưng. Ông vẽ nhiều về hình thể người phụ nữ, khai thác vẻ đẹp sexy quyến rũ của họ, bất luận là trong những trang phục kín đáo hay trạng thái khỏa thân nóng bỏng.
                    Tác phẩm "The Kiss" (Nụ hôn) của Klimt.
                   
                      Chân dung tự họa của Gustav Klimt.
4. Claude Monet (1840 - 1926): 20.684 phiếu
Claude Monet.
Là người sáng lập, đại diện xuất sắc của trường phái Ấn tượng Pháp. Chính khái niệm Ấn tượng được cho là có nguồn gốc từ tên bức tranh Ấn tượng, mặt trời mọc của ông. Claude Monet nổi tiếng với tranh phong cảnh. Những tác phẩm của ông mang đến cảm giác nhẹ nhàng, lãng mạn, nên thơ và thư thái.
Bức "Impression, soleil levant" (Ấn tượng, mặt trời mọc).
5. Marcel Duchamp (1887 - 1968): 20.647
Marcel Duchamp.
Họa sĩ người Mỹ gốc Pháp với những tác phẩm gần gũi với trường phái Da da và Siêu thực. Ngoài tài năng hơn người, Duchamp còn được nhớ đến bởi tính cách nghịch ngợm, phá phách với nghệ thuật của ông. Ông coi "Nghệ thuật là trò chơi giữa mọi người và ở mọi thời đại". Ông chính là người đã vẽ ria, thêm râu lên bức tranh Mona Lisa nổi tiếng của Leonardo da Vinci, mở đầu cho làn sóng biến tấu tác phẩm Mona Lisa về sau.
Mona Lisa (trái) của Leonardo da Vinci và bức tranh nhại (phải) của Marcel Duchamp.
6. Henri Matisse (1869 - 1954): 17.096 phiếu
Tự họa của Henri Matisse.
Nghệ sĩ người Pháp, là người tiên phong của trường phái Dã thú. Ông được đánh giá là bậc thầy trong nghệ thuật sử dụng màu sắc. Matisse và Picasso là hai người bạn ngoài đời, đồng thời là những đối thủ cạnh tranh khốc liệt trong nghệ thuật.
Bức "Woman with a Hat" của Matisse.
7. Jackson Pollock (1912 - 1956): 17.051 phiếu
Jackson Pollock.
Là nghệ sĩ nổi bật của trường phái Biểu hiện trừu tượng. Pollock điển hình cho kiểu nghệ sĩ lắm tài nhiều tật. Trong cuộc sống bình thường, ông là người hung hăng, thích gây sự. Pollock còn mắc chứng nghiện rượu nặng. Ông qua đời ở tuổi 44, trong một tai nạn vì lái xe trong lúc quá chén.
Bức "Moon-Woman Cuts the Circle" (Người đàn bà - mặt trăng cắt vòng tuần hoàn) của Pollock.
8. Andy Warhol (1928 - 1987): 17.047 phiếu
Andy Warhol.
Họa sĩ người Mỹ nổi tiếng với trường phái Nghệ thuật Đại chúng Pop Art. Ông là tác giả những bức chân dung về các nhân vật nổi tiếng như Đệ nhất phu nhân Jacqueline Kennedy, nữ diễn viên điện ảnh Marilyn Monroe, chủ tịch Mao Trạch Đông… Ngoài vẽ tranh, ông còn làm phim, viết sách…
Những bức vẽ Marilyn Monroe của Andy Warhol.
9. Willem De Kooning (1904 - 1997): 17.042 phiếu
Willem De Kooning.
Họa sĩ người Hà Lan, đại diện của trường phái Biểu hiện trừu tượng. Ông là người từng khiến dư luận kinh sợ với những tác phẩm vẽ người phụ nữ xấu xí, ma quái.
Tác phẩm "Woman III" của Willem De Kooning.
10. Piet Mondrian (1872 - 1944): 17.028 phiếu
Tự họa của Piet Mondrian.
Họa sĩ người Hà Lan, nổi tiếng với trường phái Tân tạo hình. Phong cách của ông ảnh hưởng lớn đến cả kiến trúc, đồ họa, thiết kế công nghiệp…
Bố cục với màu đỏ, xanh, vàng của Piet Mondrian.

                                                            ( http://vietbao.vn )