Biểu tượng như là "đơn vị cơ bản" của văn hóa (1)
(ĐHVH)- Văn hoá là một lĩnh vực hết sức
rộng lớn, nó bao la như chính cuộc sống của loài người. Đó là vấn đề
thuộc về mặt nhận thức của con người trong toàn bộ cách nhìn, cách ứng
xử của cá nhân đối với tự nhiên và cộng đồng xã hội. Có thể nói, văn hoá
là sự hiểu biết, là phương thức hoạt động sống của con người và là
những kinh nghiệm do con người đúc kết được trong quá trình lịch sử hình
thành nên đời sống của nhân loại.
Có nhiều cách tiếp cận văn hoá là do
đứng ở nhiều góc độ khác nhau để nghiên cứu về lĩnh vực này. Từ cách
tiếp cận nghiên cứu văn hoá theo Triết học, Sử học, Dân tộc học, Xã hội học, Tâm lý học, Ký hiệu học
v.v.. mỗi môn học nghiên cứu văn hoá lại gồm nhiều trường phái, do đó
có nhiều quan niệm về văn hoá khác nhau. Song, nhìn chung những định
nghĩa ở bình diện khác nhau của khái niệm văn hoá đều bộc lộ một quan
điểm chung nhất, văn hoá - đó là sự thăng hoa các lực lượng bản chất tự nhiên của con người.
Quan niệm của các tác giả về những định
nghĩa văn hoá nhìn chung đã có một sự tương đối đồng thuận. Họ thống
nhất với nhau ở một điểm, văn hoá - đó là cái làm nên sự khác biệt giữa
người và động vật và là cái đặc trưng cho xã hội loài người. Nhà văn hoá
học Nga L. Iô-nhin trong lời kết thúc bản tóm tắt giới thiệu các định nghĩa khác nhau về văn hoá đã nhận định "...
Các tác giả định nghĩa về văn hoá đã đồng ý với nhau, rằng văn hoá di
truyền không theo con đường sinh học mà bằng con đường học tập. Tiếp đó,
họ thừa nhận văn hoá trực tiếp gắn liền với các ý tưởng, chúng tồn tại
và được truyền đạt dưới hình thức biểu tượng (Symbol)"(2)
Hiện nay, theo quan điểm xã hội học hiện đại, các nhà khoa học đang có xu hướng đi tìm "đơn vị cơ bản" di truyền đầu tiên của xã hội nhằm xác định sự hình thành của xã hội như một loại hình tổ chức đặc biệt. Theo ý kiến của họ, “đơn vị cơ bản" xác định của xã hội phải là "chìa khoá", dùng cho việc khám phá và giải thích về quan niệm di truyền học này. Họ cũng cho biết, muốn tìm hiểu bản chất của sự di truyền xã hội cần phải tìm kiếm trực tiếp trong lĩnh vực "văn hoá tinh thần" của con người.
Và, bộ môn ký hiệu học
(Semeiology) đã và đang trở thành một phương pháp tiếp cận quan trọng
trong nghiên cứu khoa học về văn hoá. Cách tiếp cận này cho rằng, có thể
xác định “đơn vị cơ bản" của văn hoá bằng ký hiệu, thể hiện trong hoạt động sáng tạo và vận thông bằng ngôn ngữ ký hiệu - biểu tượng (symbol).
Ngày nay, vai trò to lớn của biểu tượng
trong hoạt động của đời sống con người đã được quan tâm và nghiên cứu
một cách sâu sắc với tinh thần hết sức khoa học, vai trò của trí tưởng tượng
không còn bị xem nhẹ, thậm chí không còn bị đánh giá thấp như trước
đây. Nó đã được xác định lại vị trí và được xem là mặt thứ hai của lý
trí, chính nó là nhân tố cốt lõi giúp cho con người có những phát hiện
tìm ra cái mới. Biểu tượng luôn ở vị trí trung tâm và được coi như "tế bào" của đời sống văn hoá.
Trong đời sống xã hội, dù biết hay chưa biết, chúng ta đều nhận thức và hành động theo biểu tượng.
Nó có tầm ảnh hưởng rộng khắp trong mọi mặt của đời sống con người. Từ
lĩnh vực khoa học cho đến lĩnh vực nghệ thuật, từ đời sống tâm linh cho
đến quan hệ ứng xử và giao tiếp. Người ta ngày càng tìm cách "giải mã"
ngôn ngữ biểu tượng, vừa để mở rộng trường nhận thức, khám phá ra những
giá trị văn hoá truyền thống còn chìm khuất trong lòng đời sống cộng
đồng - xã hội, vừa nhằm làm chủ một "năng lượng tinh thần" của một loại hình ngôn ngữ đặc biệt mà ta vừa mới bắt đầu khẳng định về sức mạnh của nó.
Vậy, biểu tượng (symbol) là gì? (3)
Thuật ngữ symbol bắt nguồn từ Hy Lạp. Symbolon có nghĩa là ký hiệu (Sign), dấu hiệu, lời nói, tín hiệu, triệu chứng, hợp đồng v.v...
Cũng có thuyết cho rằng chữ symbol
bắt nguồn từ động từ Hy Lạp "Symballo" có nghĩa là "ném vào một vị
trí", "liên kết", "suy nghĩ về", "thoả thuận", "ước hẹn" v.v...
Biểu tượng trong tiếng Hán: Biểu có nghĩa là: "bày ra", "trình bày", "dấu hiệu", để người ta dễ nhận biết một điều gì đó. Tượng
có nghĩa là "hình tượng". Biểu tượng là một hình tượng nào đó được phô
bày ra trở thành một dấu hiệu, ký hiệu tượng trưng, nhằm để diễn đạt về
một ý nghĩa mang tính trừu tượng.
Khởi nguyên, biểu tượng bắt nguồn từ một
tập quán Hy Lạp cổ đại, nói về một phiến đá bị đập vỡ ra thành nhiều
mảnh và chia đều cho mỗi thành viên trong một bộ tộc nào đó, trước sự
phân tán của họ, sau này khi được triệu tập trở lại thì những mảnh đá vỡ
đó được ghép lại (Sumballein) nhằm xác nhận sự hiện diện trở lại của
toàn nhóm.
Bản chất khó xác định và sống động của
biểu tượng chính là sự chia ra và kết lại với nhau, nó hàm chứa hai ý
tưởng phân ly và tái hợp. Mọi biểu tượng đều chứa đựng dấu hiệu bị đập
vỡ, ý nghĩa của biểu tượng luôn biến ảo, nó bộc lộ ra trong cái vừa gãy
vỡ vừa là nối kết, vừa xuất hiện lại vừa mất đi, khiến cho tư duy luôn
phải truy tìm, liên tưởng và muốn nắm bắt lấy vô vàn những ý nghĩa đang
còn tiềm ẩn ngay trong lòng của nó.
Jean Chevalier và Alain Gheerbrant cho rằng : "Tự
bản chất của biểu tượng, nó phá vỡ các khuôn khổ định sẵn và tập hợp
các thái cực lại trong cùng một ý niệm. Nó giống như mũi tên bay mà
không bay đứng im mà biến ảo, hiển nhiên mà không nắm bắt được. Ta sẽ
cần phải dùng các từ để gợi ra một hay nhiều ý nghĩa của một biểu tượng" (4).
Nói như Georges Gurvitch: "Các biểu tượng tiết lộ mà che giấu và che giấu mà tiết lộ"(5)
Theo quan niệm của Freud:
"Biểu tượng diễn đạt một cách gián tiếp, bóng gió và ít nhiều khó nhận
ra niềm ham muốn hay các xung đột. Biểu tượng là mối liên kết thống nhất
nội dung rõ rệt của một hành vi, một tư tưởng, mọi lời nói với ý nghĩa
tiềm ẩn của chúng"(6)
Đối với C. G. Jung, ông cho rằng: "Biểu
tượng không phải là một phúng dụ, cũng chẳng phải một dấu hiệu đơn
giản, mà đúng hơn là một hình ảnh thích hợp để chỉ ra đúng hơn cả cái
bản chất, ta mơ hồ nghi hoặc của tâm linh"(7)
Nói như vậy, bản chất của biểu tượng là
khó xác định, sự hiểu biết về nó đương nhiên còn tuỳ thuộc vào sự từng
trải và kinh nghiệm vốn có của mỗi cá nhân cũng như trình độ nhận thức
của từng người. Không những thế, việc "giải mã" tìm
ra ý nghĩa của biểu tượng cũng phải tính đến thói quen, phong tục, tập
quán của các nền văn hoá trong từng cộng đồng dân tộc khác nhau. Điều bí
ẩn vẫn luôn còn nguyên vẹn và mơ hồ về mặt ý nghĩa nếu như biểu tượng
chưa được "giải mã". Một biểu tượng thường có nhiều nghĩa và ngược lại một ý nghĩa lại có nhiều biểu tượng cùng biểu thị.
Vậy, có thể hiểu biểu tượng là những
hình ảnh tượng trưng được phô bày khiến người ta có thể cảm nhận một giá
trị trừu xuất nào đó đang tiềm ẩn trong lòng của nó.
Tự điển Larousse cho rằng : "Biểu
tượng là một dấu hiệu hình ảnh, con vật sống động, hay đồ vật, biểu
hiện một điều trừu tượng, nó là hình ảnh cụ thể của một sự vật hay một
điều gì đó"(8).
Một định nghĩa khác của nhà tâm phân học C. G. Jung về biểu tượng như sau: "Cái
mà chúng ta gọi là biểu tượng là một từ ngữ, một danh từ hay một hình
ảnh, ngay cả khi chúng là quen thuộc trong đời sống hàng ngày vẫn chứa
đựng những ý nghĩa khác, bổ sung vào cái ý nghĩa ước định hiển nhiên và
trực tiếp của nó"(9)
Theo Chu Hy, nhà triết học Trung Quốc nổi tiếng đời Tống (1131 - 1200) trong "Dịch thuyết cương lĩnh" khi bàn về biểu tượng đã viết: "Tượng là lấy hình này để tỏ nghĩa kia"(10).
Như hình bát quái, đã lấy 8 quẻ trong kinh Dịch
làm đồ hình. Mỗi quẻ là một tượng lớn, được cấu thành bởi hai tượng nhỏ
cơ bản: Một vạch liền (-) là tượng của nguyên lý dương, một vạch đứt
(--) là tượng của nguyên lý âm. Về mặt ý nghĩa của biểu tượng, còn cho
phép đọc : vạch liền là tượng của giống đực, mặt trời, đàn ông, ánh sáng, sự sống, tiến lên, cái thiện, hạnh phúc, hoà bình v.v... vạch đứt là tượng của giống cái, mặt trăng, đàn bà, bóng tối, sự chết, thoái lui, cái ác, đau khổ, chiến tranh
v.v... Biểu tượng luôn mở rộng sự liên tưởng để trí tuệ có thể truy
tìm, khám phá ra những ý nghĩa còn chìm khuất trong chiều sâu nhận thức
của con người.
Qua một số quan niệm vừa nêu trên, ta thấy sự ra đời của biểu tượng được gắn liền với sự thực hiện khiếu năng tinh thần
đặc biệt chỉ có ở loài người - năng lực tượng trưng hoá. Biểu tượng
được hiểu là một hiện tượng vật thể, nhờ thể hiện trong đó một nội dung
cụ thể - cảm tính mà hiện tượng này thể hiện, trình ra những ý nghĩa,
những giá trị trừu xuất nào đó. Có thể nói, biểu tượng chính là một loại
hình ngôn ngữ - ký hiệu (Sign).
Ngành nghiên cứu mối quan hệ giữa vật làm biểu tượng với thế giới ý nghĩa làm nên giá trị của biểu tượng cũng như đời sống của các ký hiệu trong lòng sinh hoạt xã hội, được F.De Saussure gọi là ký hiệu học (semeiology).
Tiếp cận ký hiệu học nghiên cứu biểu tượng cũng chính là muốn tìm thấy
được bản chất của hệ thống ngôn ngữ ký hiệu đặc thù này. Trong lĩnh vực
nghiên cứu chuyên ngành về ký hiệu học có nhiều quan niệm và các khuynh
hướng khác nhau. Song, chỉ có một số tên tuổi được nhắc đến như: F.De Saussure, Charles Sanders Peirce, William Morris, G.Mounin v.v.. và nổi trội hơn hết là R.Barthes và Louis Trolle Hjelmslev, trong lĩnh vực nghiên cứu hệ thống ký hiệu học hàm nghĩa - biểu tượng.
Theo L.Hjelmslev mỗi ký hiệu là hiện tượng được nẩy sinh bằng mối quan hệ giữa sự biểu đạt (Signifiant) còn gọi là cái biểu đạt
(CBĐ): như các sự kiện, hiện tượng, cái dùng để biểu thị (một đồ vật,
một hình ảnh v.v..) và nội dung được biểu đạt (Signifié) còn gọi là cái được biểu đạt
(CĐBĐ). Đó là những giá trị, quan niệm, ý nghĩa, ý tưởng v.v.. Vậy ký
hiệu là nội hàm của mối quan hệ CBĐ/CĐBĐ. Nói cách khác mỗi ký hiệu là
bộ ba:
Sự biểu đạt - Quan hệ - Nội dung
(CBĐ - QH - CĐBĐ)
|
Trình bày mô hình bộ ba trên đây thành tam giác ký hiệu như sau:
Điều đóng góp quan trọng nhất của L.Hjelmslev là có sự phân biệt giữa “ký hiệu học biểu thị” với “ký hiệu học hàm nghĩa”.
Ngôn ngữ thông thường là hệ thống ký
hiệu biểu thị. Một ngôn ngữ hàm nghĩa là một ngôn ngữ mà bình diện biểu
đạt (hình thức) của nó cũng là một hệ thống ngôn ngữ thông thường (ký
hiệu biểu thị) và cả hai hệ thống đã lồng vào nhau tạo thành một hệ
thống kép - hệ thống siêu ký hiệu.
R.Barthes đã tiếp thu khái niệm ký hiệu học biểu thị và ký hiệu học hàm nghĩa của Hjelmslev vào sơ đồ cú pháp ký hiệu học hàm nghĩa của mình. Có thể tóm tắt hệ thống "siêu ký hiệu" của R.Barthes như sau: Một là hệ thống ký hiệu học biểu thị (A) còn gọi là ngôn ngữ thông thường. Hai là hệ thống ký hiệu học hàm nghĩa (B) còn gọi là "siêu ngôn ngữ" (Metalanguage) - ngôn ngữ biểu tượng. Hai hệ thống ký hiệu này lồng trong nhau, biểu hiện thành sơ đồ sau:
Sơ đồ cú pháp ký hiệu học hàm nghĩa của R.Barthes (12)
A
|
CBĐ:
Sự biểu thị (HT)
|
CĐBĐ:
Sự biểu đạt (ND)
|
|
B
|
CBĐ:
Sự hàm nghĩa
(HT) |
CĐBĐ:
Sự hàm nghĩa
(ND)
|
(A): Ký hiệu học biểu thị (Semiotic denotative) - Ngôn ngữ thông thường
(B): Ký hiệu học hàm nghĩa (Semiotic connotative) - "Siêu ngôn ngữ".
Sơ đồ này có nghĩa là ở siêu ngôn ngữ (B) ở bình diện biểu đạt (hình thức) lại là một ký hiệu biểu thị - ngôn ngữ thông thường.
Để hiểu được hệ thống ký hiệu học hàm
nghĩa của R.Barthes trong quá trình tiếp cận ký hiệu học nghiên cứu biểu
tượng ta có thể chuyển đổi sơ đồ mẫu trên đây thành sơ đồ giải thích
như sau:
Sơ đồ giải thích ký hiệu học hàm nghĩa của người viết
(Hệ thống siêu ngôn ngữ - ngôn ngữ biểu tượng)
A
|
Hình thức sự biểu thị Sự vật, hiện tượng, cái dùng biểu thị |
Nội dung sự biểu thị nội dung, ý nghĩa, tên gọi v.v.. | |
B
|
Hình thức sự hàm nghĩa
(Ký hiệu biểu thị – hiển ngôn) |
Nội dung sự hàm nghĩa
(Ký hiệu ẩn dụ – mật ngôn) | |
Siêu ký hiệu - ngôn ngữ biểu tượng
(Symbol)
|
(A): Ký hiệu học biểu thị (Semiotic denotative) - Ngôn ngữ thông thường.
(B): Ký hiệu học hàm nghĩa (Semiotic connotative) - Ngôn ngữ biểu tượng.
Vận dụng mô hình siêu ký hiệu của R.Barthes "giải mã"
hệ thống ngôn ngữ biểu tượng (Symbol)
Ví dụ 1: Trong tác phẩm kiến trúc
A
|
CBĐ
Hình tượng của
Hoa sen
|
CĐBĐ
Loài hoa sống dưới bùn có hương thơm
|
|
B
|
CBĐ
Ký hiệu hiển ngôn
gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn |
CĐBĐ
Ký hiệu mật ngôn
"THANH CAO"
| |
Siêu ký hiệu - biểu tượng
(Symbol)
|
Ví dụ 2: Trong lễ thức dân gian
A
|
CBĐ
Hình tượng Linga - Yoni
|
CĐBĐ
Vật biểu thị giao phối
|
|
B
|
CBĐ Ký hiệu hiển ngôn
Âm dương giao hòa
|
CĐBĐ
Ký hiệu mật ngôn
"PHỒN THỰC" | |
Siêu ký hiệu - biểu tượng
(Symbol) |
Bằng hướng tiếp cận ký hiệu học nghiên cứu biểu tượng cùng sự phân tích hệ thống siêu ký hiệu của R.Barthes ta thấy biểu tượng bao giờ cũng là những ký hiệu hai mặt: cái biểu đạt là những hình thức tồn tại dưới dạng các sự vật, hiện tượng trong thế giới thực tại; cái được biểu đạt là phần nội dung với những giá trị, chuẩn mực xã hội. Chúng tạo nên thế giới ý nghĩa, được "tượng trưng hoá" trở thành hệ thống ngôn ngữ biểu tượng. Hệ thống ký hiệu học biểu thị (A)và hệ thống ký hiệu học hàm nghĩa (B) tạo nên hệ thống "kép", tức là "hệ thống trong hệ thống" - hệ thống ngôn ngữ biểu tượng. Ta có thể hình dung bằng lược đồ đơn giản như sau:
Lược đồ đơn giản kí hiệu học hàm nghĩa (13) (Lược đồ của người viết)
(CBĐ)
* A là hệ thống ký hiệu học biểu thị
* B là hệ thống đôi, hệ thống nội hàm của kí hiệu học hàm nghĩa
* S là ngôn ngữ biểu tượng
- (a) là hình tượng
- (b) là nội dung của hình tượng
- (a’) Ký hiệu hiển ngôn
- (b’) Ký hiệu mật ngôn (ẩn dụ)
Hệ thống biểu tượng cũng chính là hệ thống các khuôn mẫu văn hoá, nó quy định mọi hành vi ứng xử của con người và "hoạ kiểu" cho lối sống. Quá trình "giải mã"
hệ thống các biểu tượng cũng là nhằm mục đích thấy được kiểu lựa chọn
khác nhau về văn hoá giữa cộng đồng văn hoá này với cộng đồng văn hoá
khác. Mô hình lựa chọn đó sẽ tạo nên bản sắc riêng của mỗi cộng đồng -
dân tộc. Như vậy, văn hoá được hình thành và tồn tại nhờ vào trí tuệ và
sự sáng tạo ra các biểu tượng của con người. Bản thân một sự vật hiện
tượng cụ thể nào đó vẫn chưa là văn hoá, nếu như chưa cho nó một ý
nghĩa, một giá trị nào đó. Có lẽ, đó cũng là lý do để chúng ta nghiên
cứu các vật thể vật chất đã được coi như một biểu hiện của văn hoá.
Chúng là những vật thể vật chất đã được biểu tượng hoá trở thành những
biểu tượng, và được cả cộng đồng xã hội chấp nhận đồng thời được xem như
là bảng giá trị định hướng của toàn thể cộng đồng, ví dụ như: biểu tượng chùa một cột, biểu tượng tháp rùa, biểu tượng long, lân, quy, phượng v.v....
Tóm lại, khi chưa có một ý nghĩa nào đó được ký thác vào các vật thể
thì chúng cũng chỉ là những vật thể vật chất thông thường, có giá trị sử
dụng, giá trị kinh tế hoặc giá trị khoa học v.v... nhưng chưa nói lên
được giá trị văn hoá, ví dụ: quả bom, thuốc nổ, vàng, cái quạt, cái bàn, cái bóng đèn v.v.. có thể mang giá trị sử dụng, giá trị khoa học, giá trị kinh tế v.v.. nhưng chưa thể khẳng định là có hàm chứa trong nó những "giá trị văn hoá" hay không, nếu một khi mục đích và động cơ sử dụng nó không đem lại một "giá trị nhân bản" nào cho cuộc sống của con người. Các vật thể vật chất này, biểu thị cho một nền "văn minh".
E. Cassirer, nhà triết học nổi tiếng người Đức, tác giả của quyển sách "Triết học các hình thái biểu tượng" đã có kiến nghị thay thế định nghĩa con người như một "Động vật lý trí" bằng định nghĩa con người như một "Động vật sản xuất ra các hình thái biểu tượng". Ông đã nhận định như sau: "Tư
duy và hành vi biểu tượng hoá là đặc trưng tiêu biểu nhất của đời sống
nhân loại và toàn bộ văn hoá nhân loại phát triển đều dựa vào những điều
kiện này... chúng ta nên định nghĩa con người là động vật biểu trưng
(animal symbolicum)... chỉ có như thế, chúng ta mới có thể vạch ra chỗ
độc đáo của con người, cũng mới có thể lý giải được con đường mới khai
phóng cho con người - con đường hướng về văn hoá"(14).
Ở lĩnh vực nghiên cứu văn hoá học, L.White nhà nhân học Hoa Kỳ cũng không đồng ý cách hiểu văn hoá như một trừu tượng lý thuyết,
một cấu trúc logic chỉ tồn tại trong tư duy của con người. Ông cho
rằng, phải nghiên cứu văn hoá theo hướng tiếp cận khác, nên giới hạn và
tách nó ra khỏi những trừu tượng không sờ mó được, khó nắm bắt được,
mang tính "bản thể luận" - siêu hình và cần phải cung cấp cho việc nghiên cứu văn hoá một đối tượng "vật chất" có thể nhận thức được. L.White xem: "Văn
hoá là một lớp vật thể và hiện tượng phụ thuộc vào khả năng tượng trưng
hoá của con người, lớp vật thể ấy được nghiên cứu trong bối cảnh "siêu
hữu cơ" (Extra somatique)” (15)
L.White
cho rằng, văn hoá được quan niệm như là hành vi của Homo sapiens khi sử
dụng những vật thể vật chất, nó được xem như là bộ phận hoà nhập toàn
vẹn với hành vi này. Trên từng mặt cắt chuyên biệt, văn hoá bao gồm các
mặt như: ngôn ngữ, tư tưởng, tập quán, phong tục, các thiết chế, những công trình nghệ thuật, các lễ thức v.v... Sự tồn tại, phát triển của văn hoá và việc sử dụng văn hoá phụ thuộc vào một "năng lực" chỉ riêng con người mới có. Đó là năng lực tượng trưng hoá
- một năng lực quy định cho những sự vật và hiện tượng nào đó những ý
nghĩa mà chỉ bằng giác quan thông thường con người không thể nắm bắt
được. Sự khác biệt giữa trí tuệ con người với những động vật hạ đẳng, đó
là sự khác biệt về giống loài. Thật vậy, có thể khẳng định rằng, chẳng
có động vật nào có thể có được năng lực nhận thức, đánh giá hoặc hiểu
biết được ít nhiều những ý nghĩa xã hội mang tính người như: tưởng niệm về ngày giỗ tổ, ngày sinh, hoặc phân biệt được sự đúng sai, đẹp xấu, xác định thế nào về sự loạn luân trong quan hệ tính giao v.v
Quá trình tượng trưng hoá chính
là quá trình nội nhập (introjection) văn hoá vào đời sống của linh
trưởng. Sự tượng trưng hoá đã tạo thêm một chiều kích (dimension) mới
vào cuộc sống của vượn người, một khi mọi sự vật qua lăng kính nhận thức
đều có sự biến hoá và có sự tiếp nhận những ý nghĩa mới thông qua hệ
thống các biểu tượng. Một cái rìu đá không còn mang ý nghĩa sử dụng đơn
thuần mà nó đã mang ý nghĩa tượng trưng cho quyền uy, một con vật nào đó
đã được tượng trưng hoá để trở thành biểu tượng vật tổ (totem) của một bộ tộc nào đó trong tín ngưỡng cổ xưa.
Thế giới tự nhiên trong nhận thức sơ
khai của người nguyên thuỷ thì mọi vật thể, từ hòn đá cuội bên đường đến
con sông, khe suối, con vật, cây trồng v.v.. cả đến bầu trời trăng sao
lấp lánh trong đêm đều trở thành vật linh có sự sống. Có thể nói tất cả
những gì nhìn thấy được đều hàm chứa trong nó một ý nghĩa thâm sâu. Năng
lực tượng trưng hoá đã giúp vượn ngườii thật sự trở thành người. Thế giới biểu tượng là thế giới của ý nghĩa và hàm chứa trong lòng nó những giá trị mang bản chất người. Để nhấn mạnh vào đặc trưng này, một số nhà nhân học đã gọi con người là một động vật sử dụng biểu tượng (Homo - Symbolling).
Về "khái niệm ký hiệu về con người"
đã được L. White nhắc đến liên tục trong các công trình nghiên cứu của
mình. Ông khẳng định, con người khác con vượn và các sinh thể sống khác
là ở khả năng luôn hướng tới hành vi biểu tượng,
sự thể hiện trước hết là ở tiếng nói và ngôn ngữ. Chính sự tiếp cận văn
hoá bằng hình thái các biểu tượng, L.White đã cố công tìm kiếm cái "chìa khoá" phổ biến để nhận ra "đơn vị cơ bản" của văn hoá, cũng là hạt nhân của sự di truyền xã hội.
Trong quyển sách "Khoa học về văn hoá" (The science of culture), L.White đã viết như sau:
"Vào tháng 7 năm 1939 tại trường Đại học LeLand Stanford đã tổ chức một cuộc lễ kỷ niệm 100 năm ngày nhân loại phát hiện tế bào là "đơn vị cơ bản" của mô sống. Ngày nay chúng ta đang bắt đầu nhận thức và đánh giá cao một sự thật, rằng: biểu tượng là "đơn vị cơ bản" của mọi hành vi ứmg xử và văn hoá của nhân loại.
Toàn bộ hành vi ứmg xử của con người đều bắt nguồn từ việc sử dụng các biểu tượng. Chính biểu tượng đã làm biến đổi tổ tiên vượn người của chúng ta trở thành người và làm cho họ có đặc trưng nhân tính. Mọi nền văn hoá được tạo ra và trường tồn mãi mãi chỉ từ việc sử dụng các biểu tượng.
Biểu tượng đã làm biến đổi một đứa trẻ của người khôn ngoan (Homo
Sapiens) trở thành con người thực sự. Còn người câm điếc lớn lên, nếu
không được sử dụng các biểu tượng thì họ cũng không trở thành người đúng
nghĩa. Tất cả hành vi ứng xử của con người tạo ra hoặc phụ thuộc vào việc sử dụng các biểu tượng. Hành vi của con người là hành vi mang tính biểu tượng. Nói cách khác, hành vi mang tính biểu tượng chính là hành vi của con người. Thế giới biểu tượng là thế giới của bản chất người (nhân tính).
(Leslie A.White, The Science of Culture: A Study of Man and Civilization (New york 1949 (16).
Có thể xem thế giới biểu tượng - hệ thống các ký hiệu hàm nghĩa là hình thái ngoại hiện của văn hoá, còn hệ giá trị - xã hội nằm trong lòng mỗi biểu tượng là nội dung cơ bản của nó. Do vậy, "đơn vị cơ bản" của văn hoá chính là biểu tượng - vật hàm chứa những thông tin - xã hội. Đó cũng là hạt nhân di truyền của xã hội và là cái làm nên sự khác biệt giữa hoạt động của người với động vật.
Dựa vào năng lực tượng trưng hoá
của con người và xem biểu tượng như là một hình thái biểu hiện đặc
trưng của văn hoá, Toàn thư quốc tế về văn hoá (International the saurus
on cultural development) của Unesco đã đưa ra một định nghĩa văn hoá như sau:
"Văn hoá là tập hợp các hệ thống biểu tượng, qui định thế ứng xử của con người và làm cho một số đông người có thể giao tiếp với nhau, liên kết họ lại thành một cộng đồng riêng biệt"(17)
Trước đó, C. Levy-Strauss cũng đã rút ra một khái niệm tương tự từ nghiên cứu nhân loại học về các sự kiện văn hoá. Ông viết: "Mọi
nền văn hoá đều có thể xem như một tập hợp các hệ thống biểu tượng,
trong đó xếp ở hàng đầu là ngữ ngôn, các quy tắc hôn nhân, các quan hệ
kinh tế, nghệ thuật, khoa học, tôn giáo” (18).
A.Kroeber và C.Kluckhohn cũng đưa ra một định nghĩa về văn hoá như sau: "Văn
hoá là cái được xây dựng trên các phương thức sơ đồ hoá và quy phạm hoá
tư duy, tri giác và phản ánh, các phương pháp này đạt được và truyền
lại chủ yếu là nhờ biểu tượng, thành tựu độc đáo của các nhóm người,
phản ánh thông qua những tạo phẩm vật thể của họ, hạt nhân chủ chốt của
văn hoá là các tư tưởng truyền thống"(19)
Về phần mình, L.White cũng nêu lên một định nghĩa nhấn mạnh vào ý nghĩa biểu tượng của văn hoá:
"Văn
hoá là cơ chế của các hiện tượng, vật thể, hành động, tư tưởng, cảm
xúc. Cơ chế này được tạo ra nhờ việc sử dụng các biểu tượng, hoặc phụ
thuộc vào biểu tượng đó" (20)
Qua một số quan niệm về văn hoá nêu ở
trên ta thấy có sự tương đồng về mặt ý nghĩa. Các tác giả đều cho rằng,
yếu tố cốt lõi của văn hoá chính là hệ thống các biểu tượng, nó được xem là: "tế bào"
của văn hoá. Cách tiếp cận văn hoá bằng các hình thái biểu tượng không
có sự đối lập hoàn toàn với các cách tiếp cận văn hoá khác. Bởi ở góc độ
nào đó để nghiên cứu về văn hoá đi chăng nữa thì văn hoá không có gì
khác là toàn bộ sự hiểu biết của con người tích luỹ được trong quá trình
hoạt động thực tiễn - lịch sử được đúc kết thành các giá trị và chuẩn mực xã hội. Hệ thống giá trị xã hội đó được khách thể hoá - biểu tượng hoá trở thành các biểu tượng nhờ vào năng lực tượng trưng hoá - một năng lực đặc trưng cơ bản của hoạt động người. Biểu tượng được xem như là "tế bào" của văn hoá, nó làm nên toàn bộ đời sống văn hoá và chi phối mọi hoạt động, mọi ứng xử của con người trong đời sống xã hội.
Trong thực tế, biểu tượng bao gồm mọi dạng thức hình ảnh, được thể hiện trong thể tĩnh cũng như thể động, cái hữu hình cũng như cái vô hình. Nó tác động vào giác quan của con người chủ yếu là thính giác và thị giác,
tạo nên những rung động về chúng trong tâm hồn của con người theo từng
mức độ khác nhau. Biểu tượng có mặt hầu hết trong các biểu hiện của cuộc
sống, từ những vật thể cụ thể trong kiến trúc, hội hoạ, điêu khắc,... quốc huy, quốc kỳ, huân chương, cho đến các hình tượng trong tác phẩm nghệ thuật như: thơ ca, âm nhạc, điện ảnh v.v... Và kể cả các khuôn mẫu ứng xử trong đời sống hàng ngày hoặc trong các nghi thức lễ hội truyền thống.
Thực chất, cuộc sống ngoài những nhận
thức bằng tư duy lý tính, theo cách tư duy logic - khoa học, song còn
biết bao điều khó có thể hiểu biết trực tiếp được, nên người ta đã dùng
một “vật trung gian”, làm trung gian để có thể " hiểu biết những điều khó có thể hiểu biết" một khi các "giá trị trừu tượng" trượt ra khỏi sự nhận thức cụ thể. Vật môi giới đó chính là hệ thống các biểu tượng như: hình ảnh "Hoa cúc" tượng trưng cho sự chung thuỷ; "Rùa" tượng trưng cho sự trường tồn; "Hoa sen" tượng trưng cho sự thanh cao; "Nụ hôn" tượng trưng cho tình yêu; "Cái bắt tay" tượng trưng cho tình hữu nghị v.v...
C. G Jung cho rằng, biểu tượng tiềm ẩn từ trong cõi vô thức của con người, mà sự sáng tạo ra các biểu tượng lại ở thế giới hữu thức,
tức là nó được ra đời ngay trong lòng đời sống xã hội. Biểu tượng có
một giá trị về mặt ý nghĩa hết sức lớn lao, là con số vô hạn của những
cách biểu đạt khác nhau về khách thể, là con số biểu hiện nhiều mặt của
nó.
Biểu tượng chính là "ngôn ngữ tượng trưng" chỉ có ở loài người và là "tế bào" của văn hoá. Cho nên tìm hiểu biểu tượng cũng là tìm hiểu về văn hoá. Thế giới văn hoá chính là thế giới của biểu tượng.
Quá trình tìm hiểu và nhận thức về biểu tượng là quá trình nắm bắt và
truyền đạt thông tin có trong các biểu tượng. Qua đó con người có thể
nhận thức một cách sâu sắc về đời sống của chính bản thân mình nhằm góp
phần biến đổi một cách lớn lao trong sự phát triển toàn diện về nhân
cách của anh ta. Vì thế, biểu tượng có một chức năng quan trọng nhất, là
sự điều tiết và định hướng trở lại đời sống xã hội. Đó cũng là tính văn hoá của biểu tượng.
Ngoài ra, biểu tượng còn có "năng lực"
làm bộc lộ ra những điều bí ẩn đang còn chìm sâu trong cõi vô thức của
con người và là nguồn động lực sâu kín của nhận thức, nó mở cánh cửa của
trí tuệ cho ta bước vào một thế giới tưởng tượng đầy nhân tính. Điều
quan trọng, nó còn là hạt nhân của sự di truyền xã hội, từ đời này sang đời khác theo dòng đi của lịch sử, bằng các khuôn mẫu văn hoá cổ truyền - Cổ mẫu (Archetypes) chìm sâu trong vô thức của cộng đồng - xã hội.
Việc nhận thức và sáng tạo ra các biểu tượng cũng chính là sự nỗ lực của con người muốn "giải mã"
những điều tiềm ẩn còn chưa được khám phá. Đồng thời, con người cũng
muốn làm chủ về mặt nhận thức nhằm nâng mình lên tầm cao trí tuệ và thực
chất là muốn thoát khỏi màn đêm tối mịt mùng, bao vây và giam hãm con
người trong sự vô minh. Biết bao nhiêu giá trị của biểu tượng đang còn
chìm khuất trong huyền thoại, trong nếp sống, trong lễ hội truyền thống
và cả trong kho tàng văn hoá - nghệ thuật dân gian vẫn chưa được khám
phá. Hệ thống giá trị xã hội được đúc kết, hàm chứa trong lòng của biểu
tượng và biểu tượng chính là hình thức biểu đạt của các giá trị đó. Thế
giới biểu tượng là thế giới của ý nghĩa
mà con người đã và đang tìm kiếm hoặc chọn lựa một kiểu ứng xử, một
quan hệ nào đó đối với tự nhiên và xã hội. Các giá trị, chuẩn mực được
kết tinh trong lòng các biểu tượng chính là thành tố cốt lõi làm nên bản sắc riêng của mỗi cộng đồng xã hội, nó quy định thế ứng xử và giao tiếp
của con người, chi phối toàn bộ đời sống tâm lý cũng như mọi hoạt động
của họ trong cộng đồng - xã hội đó. Biểu tượng đã làm nên đặc trưng duy
nhất để phân biệt văn hóa với văn minh.
Như vậy, bằng hướng tiếp cận ký hiệu học nghiên cứu biểu tượng và coi nó như là một hình thái biểu hiện đặc trưng của văn hoá, ta khẳng định rằng, biểu tượng chính là "tế bào” của văn hoá. Có thể nói các yếu tố làm nên văn hoá bao gồm: Giá trị - Chuẩn mực - Biểu tượng.
Qua sự phân tích trên đây, có thể nêu lên một định nghĩa khái quát về biểu tượng như sau:
"Biểu
tượng là một hình thái ngôn ngữ - ký hiệu tượng trưng của văn hoá. Nó
được sáng tạo nhờ vào năng lực “tượng trưng hoá” của con người, theo
phương thức dùng hình ảnh này để bày tỏ ý nghĩa kia nhằm để nhận thức và
khám phá ra một giá trị trừu tượng nào đó. Biểu tượng được xem là “tế
bào” cuả văn hóa và là hạt nhân “di truyền xã hội” đầu tiên của nhân
loại. Nó quy định mọi hành vi ứng xử và giao tiếp của con người đồng
thời liên kết họ lại thành một cộng đồng riêng biệt".
TS. Nguyễn Văn Hậu
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
( http://huc.edu.vn )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét