Diễn trình mỹ thuật Việt Nam qua một số kiệt tác tiêu biểu
(ĐHVH) - Mỹ thuật là một trong những loại hình nghệ thuật có lịch sử lâu đời nhất. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều bức họa có niên đại từ 75.000-95.000 năm trước tại châu Phi. Bức tượng cổ nhất là tượng phụ nữ khỏa thân được tạc bằng ngà voi ma mút được tìm thấy ở hang Hohle Fels ở tây nam nước Đức có niên đại 35.000 năm. Ở Việt Nam, hình vẽ mặt người có sừng trên đầu ở hang Đồng Nội (Hòa Bình) có niên đại 10.000 năm; những hình khắc người, muông thú, chữ cổ… trên bãi đá cổ Sapa (Lào Cai) có niên đại cũng vài chục ngàn năm về trước. Mỹ thuật không chỉ là phương tiện phản ánh thế giới, mà còn là phương tiện thể hiện tư tưởng, tình cảm của con người. Mỹ thuật bao gồm 3 loại hình cơ bản gồm điêu khắc, hội họa, kiến trúc. Ngày nay, mỹ thuật được mở rộng về loại hình và hiện diện trong mọi lĩnh vực của đời sống với chất liệu, phương tiện, phương thức biểu đạt dường như vô giới hạn.
Kiệt tác (masterpiece) là tác phẩm nghệ thuật đặc sắc. Kiệt tác tiêu biểu là tác phẩm nghệ thuật có tính chất đại diện cho một thời kỳ phát triển của nghệ thuật. Kiệt tác tiêu biểu chứa đựng và phản ánh lịch sử, văn hóa, văn minh của dân tộc đã sản sinh ra kiệt tác đó. Kiệt tác mỹ thuật tiêu biểu có thể vượt ra khỏi phạm vi của loại hình nghệ thuật, trở thành biểu tượng cho cả thời kỳ lịch sử, cho nền văn hóa, thậm chí cho cả một thời đại. Chẳng hạn, trống đồng Ngọc Lũ không chỉ là biểu tượng của văn hóa Việt Nam, mà còn là biểu tượng của cả thời đại Đông Sơn nổi tiếng.
Mỗi một giai đoạn lịch sử có thể có nhiều kiệt tác. Phải xác định tiêu chí để làm căn cứ lựa chọn kiệt tác tiêu biểu trong số các kiệt tác của cùng giai đoạn lịch sử. Kiệt tác mỹ thuật tiêu biểu được xác định theo các tiêu chí sau:
- Nổi tiếng trong phạm vi quốc gia, quốc tế;
- Có giá trị nghệ thuật nổi bật, đạt đỉnh cao, thể hiện
sự sáng tạo, sự độc đáo trong lĩnh vực mỹ thuật;
- Có giá trị lịch sử, văn hóa tiêu biểu, có thể đại diện
cho một giai đoạn phát triển của mỹ thuật, của văn hóa.
Rõ ràng nhận thấy các tiêu
chí trên chỉ có tính định tính, bởi trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật khó mà sử
dụng các tiêu chí định lượng, có thể cân đong đo đếm được.
Mỗi một thời kỳ, một trào lưu trong lịch sử mỹ thuật nói riêng, văn hóa nói chung tuân theo quy luật có tính phổ quát, đó là: hình thành, phát triển, thoái trào, diệt vong và sau đó bắt đầu một thời kỳ hoặc trào lưu mới. Quy luật này chịu sự tác động của nhiều yếu tố có tính vật chất, xã hội và lịch sử. Diễn trình của lịch sử mỹ thuật được vẽ theo hình “sin”, qua đó trên mỗi đỉnh của nó có các kiệt tác tiêu biểu. Nhìn diễn trình lịch sử qua các kiệt tác tựa như đứng trên cao nhìn các đỉnh núi để thấy được diện mạo toàn cảnh của mỹ thuật, qua đó có thể phần nào hình dung ra diện mạo của văn hóa dân tộc.
1. Một số kiệt tác mỹ thuật tiêu
biểu
Với 3 tiêu chí trên tác giả lựa chọn 5 kiệt tác tiêu biểu của mỹ thuật
Việt Nam để khảo cứu: 1. Trống đồng Ngọc Lũ (Hà Nam); 2. Tượng “Vũ nữ Apsara” (Trà Kiệu, Quảng Nam); 3. Tượng “Phật A-di-đà” (chùa Phật Tích,
Bắc Ninh); 4. Tượng “Phật Quan âm nghìn mắt, nghìn tay” (chùa Bút Tháp, Bắc
Ninh) và 5. Bức tranh “Thiếu nữ bên hoa huệ” (Tô Ngọc Vân).
1.1.
Trống đồng Ngọc Lũ
Trống đồng
Ngọc Lũ là một trong những trống đồng Đông Sơn tiêu biểu nhất, đẹp nhất, có kích
thước lớn, hình dáng chuẩn mực, có hoa văn, họa tiết phong phú nhất. Trống đồng
Ngọc Lũ được phát hiện vào cuối thế kỷ XIX tại tỉnh Hà Nam, hiện được trưng bày
tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Hà Nội.
Trống có hình dáng cân
đối, mặt trống hơi tràn ra ngoài tang trống. Trống có đường kính
79 cm, cao 63 cm. Thân trống
có 3 phần: 1. phần trên phình ra gọi là tang,
nối liền với mặt trống; 2. phần giữa thân trống hình trụ thẳng đứng; 3. phần chân hơi loe thành hình nón cụt. Có 4 chiếc quai chia làm
hai cặp gắn vào tang và phần giữa trống, được trang trí hình bện thừng. Hoa văn được trang trí ở trên
mặt trống và thân trống. Hoa văn có 3 loại:
1.
Hoa văn hình học: có các loại hình tam giác, hình chữ “S” nghiêng gẫy
khúc, hình tròn, dấu chấm nhỏ, vạch song song…;
2.
Hoa văn hình người, động vật: hình người múa, thổi kèn, tay cầm rìu, cầm
giáo, đôi trai gái cầm chày giã cối… hình hươu, chim (cò, vạc, sếu), chó;
3.
Hình hoa văn đồ vật: nhà cửa, thuyền, vũ khí (giáo, cung tên), công cụ
(rìu, chày cối), trang phục (váy, mũ lông chim)…
Trống đồng Ngọc Lũ là
một kiệt tác của nghệ thuật trang trí. Các hoa văn có tính cách điệu cao, rất đẹp
và độc đáo. Tạo hình thân trống rất hài hòa, có tính biểu tượng. Trống đồng Ngọc
Lũ chứa đựng quan niệm vũ trụ quan, nhân sinh quan đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục
nghiên cứu, giải mã. Lê Văn Siêu nhận định mặt trống đồng Ngọc Lũ là bộ lịch của
người xưa[1].
Quan niệm chung cho rằng trống đồng là nhạc khí, dùng trong tế lễ và đánh trận.
Gần đây, có ý kiến cho rằng trống đồng là vật thiêng để thờ, gắn với tín ngưỡng
phồn thực của cư dân nông nghiệp. Trống đồng có tượng hình của cối (sinh thực khí nữ), của cơ thể phụ nữ. Dùng chày (sinh thực
khí nam), giã vào trống
đồng là trình diễn hành vi tính giao, cầu sinh sôi nẩy nở, phong đăng hòa cốc.
Trống đồng Ngọc Lũ
Trống đồng Ngọc Lũ đạt
hầu hết các tiêu chí của một kiệt tác tiêu biểu, có giá trị nổi bật về lịch sử
và văn hóa nghệ thuật. Nó đã vượt qua phạm vi là một sản phẩm của nghệ nhân, trở
thành kiệt tác mỹ thuật tiêu biểu mở đầu cho lịch sử mỹ thuật và lịch sử văn hóa
Việt Nam. Trống đồng Ngọc Lũ đã trở thành biểu tượng cho văn hóa Việt Nam và là
biểu tượng cho cả nền văn minh Đông Sơn nổi tiếng.
1.2. Tượng Vũ nữ
Apsara
Pho tượng “Vũ nữ
Apsara” ở bệ tượng Trà Kiệu (Quảng Nam) có niên đại vào cuối thế kỷ X. Pho tượng
tạc hình một cô gái có khuôn mặt đầy đặn, sống mũi cao, mắt to, môi dày với đầy
đủ đặc điểm nhân chủng Chăm. Đầu đội mũ Mrần nhiều tầng theo kiểu Kirata –
Mukara. Một chiếc khố mỏng mảnh được chạm khắc tinh tế, những đường tròn của
chuỗi hạt dây lưng và viền khố tạo ra những làn sóng mềm mại. Cô gái gần như lõa
thể với bộ ngực căng tròn, cặp đùi thon, bụng nhỏ, cổ tay tròn lẳn, toàn bộ cơ thể tràn đầy sinh lực và sức
sống. Vũ nữ chuyển động theo tư thế múa, một chân đang nhón gót, trong khi một
chân trụ vững. Một tay uốn cong lên phía trên, một tay uốn vòng xuống phía dưới.
Vũ điệu phô bày vẻ đẹp nhục cảm nhưng thanh khiết. Một vẻ đẹp không thể diễn tả
bởi vũ điệu và nhịp điệu của cơ thể vũ nữ, từ khuôn mặt với cặp mắt như đang mê
đắm trong nhạc điệu.
Vũ nữ Apsara
Pho tượng “Vũ nữ
Apsara” là kiệt tác tiêu biểu cho văn hóa Chăm Pa phát triển rực rỡ giai đoạn từ
thế kỷ VII – XV, với nghệ thuật kiến trúc tháp Chăm tinh tế và nghệ thuật điêu
khắc đạt đến sự hoàn mỹ và độc đáo.
1.3. Tượng “Phật
A-di-đà”
Chùa Phật Tích (xã Phật
Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh) được khởi dựng vào thời Lý (1057). Vua Lý
Thánh Tông cho xây dựng một tháp cao. Theo tương truyền, khi ngôi tháp bị đổ đã
lộ ra pho tượng “Phật A-di-đà” bằng đá xanh nguyên khối được dát vàng[2].
Pho tượng “Phật A-di-đà”
Pho tượng “Phật A-di-đà”
được tạc bằng đá xanh nguyên khối, chiều cao hiện tại là 2m77[3].
Tượng diễn tả Đức Phật ngồi trên tòa sen theo lối kiết già[4],
thanh thản, tự tại. Đôi bàn tay kết ấn tam
muội, tay trái đặt lên lòng bàn tay phải, hai ngón cái chạm nhau. Khuôn mặt
phúc hậu, mi mắt khép hờ, phản chiếu sự tập trung nội tâm đầy viên mãn. Mình tượng
thanh thoát, áo pháp như dính ướt sát người, nếp áo mềm mại, tinh tế. Đức Phật
ngồi trên tòa sen, đặt trên bệ tượng bát giác, giật cấp theo hình thang rộng phía
dưới, khiến cho bức tượng thanh thoát mà vẫn vững chắc. Bệ tượng được trang trí
nhiều lớp hoa văn khá dày đặc, tinh tế. Dáng tượng thon dài, mặt tượng bầu bĩnh,
trẻ trung với hàng lông mày cong vút, cổ cao ba ngấn[5],
đặc biệt y phục hai lớp, có áo khoác ngoài mỏng, nếp áo lan tỏa mềm mại, vai áo
phủ hình lá sen, nút áo thắt trước bụng cho ta thấy thân tượng thon nhỏ, làm
cho nhân vật đậm chất nữ tính.
Chùa Phật Tích là di
tích lịch sử văn hóa đặc biệt quan trọng và pho tượng “Phật A-di-đà” là kiệt tác
điêu khắc hoàn thiện nhất, tiêu biểu và mở đầu cho văn hóa Phật giáo Việt Nam
sau đêm trường ngàn năm Bắc thuộc.
1.4. Pho tượng “Phật
Quan âm nghìn, mắt nghìn tay”
Pho tượng “Quan âm nghìn mắt, nghìn tay” (còn gọi
là tượng Bồ tát Quan thế Âm thiên thủ thiên nhãn) là tác phẩm điêu khắc bằng gỗ
lớn nhất Việt Nam thuộc chùa Bút Tháp (Ninh Phúc tự) - thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ,
huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Tượng
có niên đại tuyệt đối là năm 1656, với tác giả được cho là Trương Thọ Nam[6].
Chiều cao cả pho tượng là 3,7m. Tượng có 11 đầu, 42 tay lớn và 789 tay dài ngắn
khác nhau. Trong lòng mỗi bàn tay có một con mắt. Phật ngồi trên tòa sen, cao
2,35m. Đầu rồng đội tòa sen cao 30cm. Bệ tượng cao 54cm, hình vuông được trang
trí bằng các hoa văn, cây cỏ, con vật thiêng như rồng – ngư với viên ngọc, lân
với quả cầu, quạt hai vòng tròn, họa tiết sóng nước, hoa sen. Phật Quan âm ngồi
tọa thiền với dáng hành đạo, hai tay chắp trước ngực, hai tay để trên đùi, phía
sau lưng là các chùm cánh tay, với các thế rất đa dạng, đẹp mắt. Toàn bộ sau lưng
của pho tượng là một lá đề lớn, trên đó có những bàn tay nhỏ, tạo hình hướng tâm
như các tia hào quang phát sáng. Phật Quan âm với khuôn mặt thư thái, ánh mắt
quảng đại như bao quát cả vũ trụ.
Pho tượng “Quan âm nghìn mắt, nghìn tay”
Phật Quan âm nghìn mắt, nghìn tay là một
kiệt tác mỹ thuật, nổi bật về nghệ thuật tạo hình với bố cục, tỉ lệ, hình khối,
đường nét đạt đến độ hoàn mỹ, vừa tạo nên rung cảm thẩm mỹ, vừa thể hiện triết
lý Phật giáo. Giải pháp tạo hình với lá đề
làm nền, trên gắn những bàn tay có con mắt Phật, thể hiện triết lý của Phật pháp
có nghìn con mắt, nghìn bàn tay cứu độ chúng sinh, thực sự là một sáng tạo tuyệt
vời. Pho tượng được đặt trong không gian Phật giáo của chùa Bút Tháp, với Phật điện âm u, có Tích thiện am 3 tầng mái, tháp
đá Bảo Nghiêm, lầu chuông, cầu đá… cùng với hơn 70 pho tượng rất đẹp, trong đó
có pho tượng Tuyết Sơn cũng là một kiệt tác mỹ thuật, thì Phật Quan âm nghìn mắt nghìn tay càng nổi bật với những giá trị lịch
sử, văn hóa, nghệ thuật tiêu biểu.
1.5. Bức tranh
“Thiếu nữ bên hoa huệ”
Bức tranh
“Thiếu nữ bên hoa huệ” là tác phẩm với chất liệu sơn dầu của họa sĩ Tô Ngọc Vân
được sáng tác năm 1943. Nhân vật trong tranh là một thiếu nữ mặc áo dài trắng
ngồi nghiêng đầu vuốt tóc một cách duyên dáng bên lọ hoa huệ tây trắng (thường
gọi là hoa loa kèn). Tạo hình của nhân vật như khối tượng, cả dáng người tạo thành
hình vòng cung như ôm lấy những bông hoa trắng, trông tĩnh mà động. Thiếu nữ với
trang phục, khuôn mặt, bàn tay được diễn tả bằng những khối được giản lược, trong không gian chan hòa ánh sáng. Tuy theo kỹ
thuật tạo hình và chất liệu phương Tây nhưng bức tranh vẫn mang sắc thái Việt
Nam qua việc đơn giản hóa khối và màu sắc trong sử lý tác phẩm.
Bức tranh
“Thiếu nữ bên hoa huệ”
Tác phẩm
này được coi là bức tranh tiêu biểu nhất của danh họa Tô Ngọc Vân và là một kiệt
tác tiêu biểu cho mỹ thuật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Bức tranh cũng đánh dấu
bước chuyển có tính chất bước ngoặt của mỹ thuật Việt Nam trong giao lưu, tiếp
biến với văn hóa phương Tây.
2. Diễn trình văn hóa qua các kiệt tác mỹ thuật tiêu
biểu
2.1. Các
kiệt tác tiêu biểu qua các chỉ số
Lịch sử mỹ
thuật Việt Nam qua 5 kiệt tác tiêu biểu, từ trống đồng Ngọc Lũ (nền văn minh Đông
Sơn) đến bức tranh “Thiếu nữ bên hoa huệ” (thế kỷ XX) có chiều dài thời gian từ
2.500 – 2.700 năm. Tính trung bình cứ mỗi 500 - 550 năm thì có một kiệt tác tiêu
biểu. Tuy nhiên, thời gian giữa các kiệt tác tiêu biểu trong thực tế có độ dài
ngắn rất khác nhau. Chẳng hạn, từ trống đồng Ngọc Lũ đến tượng “Vũ nữ Apsara” và
tượng “Phật A-di-đà” là hơn 1.500 năm. Thế kỷ X và thế kỷ XI xuất hiện 2 kiệt tác
tiêu biểu với khoảng cách thời gian chỉ hơn nửa thế kỷ.
Về thể loại
thì điêu khắc chiếm tỉ lệ 4/5 (=
80%); hội họa chỉ có 1/5 (= 20%). Chất
liệu bền vững cũng chiếm tỉ lệ lớn gồm có đồng
và đá, 3/5 tác phẩm (= 60%). Như vậy,
về loại hình thì điêu khắc có số lượng áp đảo và là thế mạnh của mỹ thuật truyền
thống Việt Nam, hội họa phát triển rất hạn chế và không có thành tựu lớn cho đến
thế kỷ XX. Trong quá khứ chỉ có một số dòng tranh truyền thống mang đậm chất dân
gian như tranh Đông Hồ (Bắc Ninh), Hàng Trống ̣(Hà Nội), Làng Sình (Huế)… Không
có họa sĩ được ghi danh nào trong lịch sử, phải mãi đến cuối thế kỷ XIX, đầu XX
trong mỹ thuật mới xuất hiện họa sĩ. Tương tự như trong văn học Việt Nam truyền
thống thì thơ chiếm tỉ lệ áp đảo so với
văn xuôi, có nhiều nhà thơ nổi tiếng,
trong khi số lượng nhà văn không nhiều và văn xuôi không có thành tựu như thơ[7].
Về chất
liệu của 5 kiệt tác thì có 4 loại chất liệu được sử dụng, gồm: 1 đồng
(trống đồng Ngọc Lũ); 2 đá (tượng “Vũ nữ Apsara” và “Phật A-di-đà”); 1 gỗ (tượng “Phật Quan âm
nghìn mắt, nghìn tay”) và 1 sơn dầu (Bức tranh” Thiếu nữ bên
hoa huệ”). Chất liệu đồng, đá, gỗ là chất liệu từ tự nhiên và tại chỗ, còn sơn
dầu là chất liệu công nghiệp được nhập từ phương Tây.
Về tác giả
của kiệt tác thì chỉ xác định được 2/5 (Trương Thọ Nam (?) và Tô Ngọc Vân), còn
hầu hết các tác giả là nghệ nhân – nghệ sĩ dân gian và họ không được ghi danh
trong tác phẩm.
Về chủ đề,
hầu hết các kiệt tác (4/5 kiệt tác = 80%) có gắn với tôn giáo, tín ngưỡng, đặc
biệt là Phật giáo thực sự có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với sáng tạo văn hóa nghệ
thuật. Ta cũng có thể dễ dàng nhận thấy điều tương tự ở thời đại Phục Hưng các
kiệt tác mỹ thuật (tranh, tượng, kiến trúc) của các danh họa vĩ đại như
Leonardo Da Vinci, Raphaen, Michelangelo… đều có chủ đề Thiên Chúa giáo.
Về nhân vật
của các kiệt tác mỹ thuật tiêu biểu thì nhân
vật nữ có 3/5 (=60%), gồm “Vũ nữ Apsara”, “Phật Quan âm nghìn, mắt nghìn
tay”, “Thiếu nữ bên hoa huệ”, chưa kể “Phật A-di-đà” đầy chất nữ tính, trống đồng
Ngọc Lũ có tượng hình của cối, biểu tượng
sinh thực khí nữ cũng thuộc phạm trù
tính nữ (tín ngưỡng phồn thực). Điều đó cho thấy nông nghiệp lúa nước, với chế độ
mẫu hệ và tín ngưỡng cầu sự sinh sôi, nẩy nở đã ảnh hưởng đến đặc điểm văn hóa
dân tộc và mỹ thuật cũng phản ánh tính chất này trong các kiệt tác.
Về địa điểm
thì riêng tỉnh Bắc Ninh có 2 kiệt tác là tượng “Phật A-di-đà”, “Phật Quan âm
nghìn mắt, nghìn tay”. Điều này dễ hiểu bởi mảnh đất Bắc Ninh khi vào thời kỳ đầu
công nguyên đã là trung tâm Phật giáo Luy Lâu phồn thịnh, vang danh một thời
trong lịch sử, với nhiều cao tăng Ấn Độ và chùa chiền được xây dựng.
Xem bảng
thống kê sau:
TT
|
Kiệt tác tiêu biểu
|
Thể loại
|
Chất liệu
|
Niên đại
|
Tác giả
|
Nhân vật
|
Tôn giáo, tín ngưỡng
|
1.
|
Trống đồng
Ngọc Lũ
|
Điêu khắc
-trang trí
|
Đồng
|
tk. 5-7
TCN
|
Khuyết
danh
|
Có tính
nữ
|
Tín ngưỡng
phồn thực
|
2.
|
Vũ nữ
Apsara
|
Điêu khắc
|
Đá
|
tk. X
|
Khuyết
danh
|
Nữ
|
Ấn độ
giáo
|
3.
|
Phật
A-di-đà
|
Điêu khắc
|
Đá
|
tk. XI
|
Khuyết
danh
|
Có tính
nữ
|
Phật giáo
|
4.
|
Phật
Quan âm NMNT
|
Điêu khắc
|
Gỗ
|
tk.
XVII
|
Trương
Thọ Nam (?)
|
Nữ
|
Phật giáo
|
5.
|
Thiếu nữ
bên hoa huệ
|
Hội họa
|
Sơn dầu
|
tk. XX
|
Tô Ngọc
Vân
|
Nữ
|
Không
|
2.2. Mối
quan hệ giữa văn hóa và mỹ thuật
Diễn trình
của mỹ thuật song hành trong dòng chảy văn hóa. Thành tựu của mỹ thuật cũng là
thành tựu của văn hóa, phản ánh đặc điểm, tính chất của mỗi giai đoạn lịch sử của
văn hóa.
Theo Trần
Ngọc Thêm, tiến trình văn hóa Việt Nam có thể chia thành 6 giai đoạn: 1. văn hóa
thời tiền sử, 2. văn hóa Văn Lang – Âu lạc, 3. văn hóa thời chống Bắc thuộc, 4.
văn hóa Đại Việt, 5. văn hóa Đại Nam và 6. văn hóa hiện đại. Sáu giai đoạn này
tạo thành ba lớp chồng lên nhau: 1. lớp văn hóa bản địa, 2. lớp văn hóa giao lưu
với Trung Hoa và khu vực, 3. lớp văn hóa giao lưu với Phương Tây[8].
Trống đồng Ngọc Lũ là sản phẩm của lớp văn hóa bản địa. Thành tựu lớn
nhất của giai đoạn này sau nghề trồng lúa nước là nghề luyện kim đồng. Trống đồng Đông Sơn xuất hiện vào
những thế kỷ 7 – 5 TCN, gắn với thời đại nhà nước Văn Lang, Âu Lạc. Mặc dù lịch
sử của thời đại các vua Hùng chưa được tranh luận ngã ngũ nhưng hoa văn và các
hoạt cảnh trên trống đồng đã phản ánh phần nào xã hội của nền văn minh nông
nghiệp ngày ấy. Trống đồng Đông Sơn nói chung và trống đồng Ngọc Lũ nói riêng là
“bộ lịch sử” bằng hình về xã hội Lạc
Việt. Xã hội ấy phải có trình độ kỹ thuật và tay nghề rất cao của nghệ nhân mới
có thể đúc được sản phẩm có độ phức tạp đến như vậy. Có ý kiến cho rằng xã hội
Lạc Việt đã phát triển đến trình độ có nhà nước mới có thể tổ chức khai quặng,
luyện kim, có trình độ khoa học nhất định mới tìm được vật liệu chịu lửa để làm
khuôn đúc, hiểu biết tính năng hóa lý của hợp kim đồng... Xã hội ấy đã có phân
tầng xã hội, đã có phân hóa giàu nghèo được phản ánh trong hiện vật tùy táng ở
các ngôi mộ. Đây cũng chính là giai đoạn đã tạo nên đỉnh cao rực rỡ trong lịch
sử dân tộc – văn hóa và có ảnh hưởng đến toàn khu vực.
Ba kiệt tác tượng “Vũ
nữ Apsara”, “Phật A-di-đà” và “Phật Quan âm nghìn mắt, nghìn tay” thuộc về lớp
văn hóa Đại Việt, khi dân tộc Việt đã vượt thoát khỏi ngàn năm Bắc thuộc và bước
vào giai đoạn tự chủ. Trong giai đoạn này, văn hóa dân tộc có sự du nhập của Phật
giáo (ở miền Trung là Ấn độ giáo) và sau này có Nho giáo và Đạo giáo. Thời đại
Lý – Trần chứng kiến sự phát triển cực thịnh của Phật giáo Việt Nam. Sự sùng kính,
cảm hứng sáng tạo và thiên tài của nghệ nhân đã tạo ra kiệt tác tiêu biểu cho văn
hóa Phật giáo Việt Nam. Trong sử sách Trung Hoa còn truyền tụng về bốn công trình
nghệ thuật lớn của văn hóa Phật giáo thời Lý – Trần mà họ gọi là “An Nam tứ đại
khí”, đó là Tượng Phật chùa Quỳnh Lâm, Tháp
Báo Thiên, Chuông Quy Điền và Vạc Phổ
Minh. Ngày nay, chùa Bái Đình tân tự (Ninh Bình) chưa hoàn thành mà đã
lập các kỷ lục trong đó có kỷ lục về tượng đồng lớn nhất Đông Nam Á như: tượng
Phật Tổ 100 tấn, 3 pho Tam Thế 50 tấn, Phật Di Lặc 100 tấn và Quan Thế Âm 90 tấn…
Thực ra, kiệt tác “Vũ
nữ Apsara” thuộc vào dòng chảy riêng của văn hóa Chăm Pa từ thế kỷ II đến XV,
khi Vương quốc Chăm Pa còn là quốc gia độc lập với Đại Việt. Đây là một nền văn
hóa có sự phát triển rực rỡ của nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc, đặc biệt kiến
trúc tháp Chăm cũng là kiệt tác mỹ thuật có tầm cỡ khu vực và thế giới, chứa đựng
những bí ẩn của nghệ thuật và kỹ thuật xây dựng tháp. Nền văn hóa Chăm Pa có ảnh
hưởng và tiếp thu Ấn độ giáo, Phật giáo và Hồi giáo, tạo ra cho mỹ thuật Chăm một
bản sắc độc đáo. Giai đoạn từ thế kỷ VII - XVI đến là giai đoạn phát triển rực
rỡ của nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc với hàng trăm tháp, tượng, bệ thờ. Thánh
địa Mỹ Sơn đã được công nhận là Di sản văn hóa thế giới.
Kiệt tác “Thiếu nữ bên
hoa huệ” của danh họa Tô Ngọc Vân ra đời trong bối cảnh văn hóa Việt Nam bước vào
cuộc giao lưu văn hóa phương Tây. Sự giao lưu, tiếp biến đó đã làm biến đổi nền
văn hóa Việt Nam trên mọi phương diện, đặc biệt trong lĩnh vực mỹ thuật.
Việc Pháp mở Trường
Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm
1925 để đào tạo họa sĩ đã làm cho mỹ thuật Việt Nam sang một trang sử mới. Mỹ
thuật được xây dựng trên cơ sở tạo hình phương Tây, theo tư duy duy lý, khoa học
của định luật xa gần và giải phẫu. Các chất liệu mới được du nhập, trong đó có
sơn dầu, đã mở rộng khả năng diễn tả, phản ánh hiện thực một cách vô cùng phong
phú. Mỹ thuật có xu hướng dân chủ hóa, gần với đời sống. Tâm hồn, cốt cách của
người Việt vẫn được chuyển tải và thể hiện đậm nét trong các tác phẩm của các
nghệ sĩ Việt Nam từ họa sĩ Lê Huy Miến, người Việt Nam đầu tiên học vẽ tại Pháp,
đến thế hệ đầu đàn học Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương như Nguyễn Gia Trí,
Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Tư Nghiêm,
Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên… Các bức tranh của họ rất khác
tranh Pháp mà rất Việt Nam trong bố cục, màu sắc, đường nét. Nổi tiếng trong số
đó phải kể đến các bức tranh tiêu biểu như “Em Thúy” (Trần Văn Cẩn), “Chơi ô ăn
quan” (Nguyễn Phan Chánh), “Gióng” (Nguyễn Tư Nghiêm), “Kết nạp Đảng trên trận địa”
(Nguyễn Sáng)…
Bức tranh “Thiếu nữ bên
hoa huệ” của họa sĩ Tô Ngọc Vân là một minh chứng thể hiện rất rõ sự giao lưu
tiếp biến văn hóa thể hiện trong lĩnh vực mỹ thuật. Chất liệu sơn dầu vẽ trên toan, hình họa và giải phẫu của nhân vật
theo kỹ thuật tạo hình phương Tây. Nhân vật là con người cụ thể của một khoảng
khắc của đời sống, mặc áo dài (một kết
quả giao lưu tiếp biến văn hóa), trong khung cảnh thơ mộng của đời sống thị dân.
Thiếu nữ được vẽ với kỹ
thuật hình họa vững vàng. Mặc dù được vẽ theo lối hiện thực, nhưng không tỉa tót,
đi sâu vào chi tiết như lối vẽ phương Tây. Khối được đơn giản hóa, đôi chỗ chỉ
gợi để diễn tả khối, giản lược tối đa độ chuyển đậm nhạt. Đôi chỗ họa sĩ buông
vài nét bút rất chắt lọc, tạo độ nhấn. Nhìn chung toàn bộ tác phẩm được giản lược
về màu, khối và hình mà vẫn diễn tả được ánh sáng và không gian. Phải chăng đó
cái riêng, cái độc đáo của Tô Ngọc Vân trong kiệt tác “Thiếu nữ bên hoa huệ”.
Biểu đồ diễn trình mỹ thuật qua các kiệt tác tiêu biểu:
3. Thay lời kết luận
Mỹ thuật Việt Nam có
lịch sử hàng ngàn năm, gắn với các giai đoạn và các lớp văn hóa. Quá trình lịch
sử ấy đã sản sinh ra các kiệt tác trong đó có các kiệt tác tiêu biểu, đã phản
ánh khá đầy đủ các đặc điểm, tính chất của các giai đoạn và các lớp văn hóa.
Dòng chảy mỹ thuật
không phải lúc nào cũng thuận dòng. Mỹ thuật Đông Sơn phát triển với đỉnh cao rực
rỡ với nghệ thuật trang trí với đạt đến tuyệt mỹ, nhưng lụi tàn và bị gián đoạn
trong thời gian ngàn năm Bắc thuộc. Giai đoạn tiếp nối sau khi dân tộc đã bước
vào giai đoạn tự chủ thì nghệ thuật trang trí cách điệu với các mô-típ hình học không được tiếp nối. Chỉ
còn vang vọng trên cạp váy Mường (Từ Chi) và mãi mãi khiến chúng ta ngưỡng mộ
di sản của cha ông được phát lộ từ
trong lòng đất.
Tôn giáo, tín ngưỡng
có vai trò bệ đỡ cho các thành tựu mỹ thuật. Với nền mỹ thuật Đông Sơn, tín ngưỡng
phồn thực được biểu hiện đầy đủ và toàn diện nhất trên trống đồng; Phật giáo là
nguồn cảm hứng to lớn để người nghệ sĩ đã sáng tạo ra những kiệt tác điêu khắc
tuyệt mỹ, cũng như Ấn độ giáo đối với nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Chăm,
tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng với mỹ thuật đình làng…
Nhìn chung, mỹ thuật
dân gian vẫn là nét chủ đạo của di sản mỹ thuật truyền thống. Những người nghệ nhân
– nghệ sĩ dân gian vô danh nhưng đã sáng tạo ra một khối lượng di sản văn hóa đặc
sắc, thể hiện tài trí, thẩm mỹ của người Việt qua kiến trúc, điêu khắc.
Việt Nam có quá trình
giao lưu, tiếp biến với văn hóa Trung Hoa, một nền văn hóa lớn có sự phát triển
mạnh mẽ của hội họa, có lý luận tạo hình với Lục pháp luận từ thế kỷ thứ VI sớm nhất trên thế giới, có danh họa
nổi tiếng thế giới nhưng hội họa Việt Nam truyền thống hầu như không có giao
lưu, tiếp biến với hội họa Trung Hoa và hội họa truyền thống Việt Nam không có
thành tựu như điêu khắc và kiến trúc.
Bước thời kỳ hiện đại,
mặc dầu trong bối cảnh thuộc địa,
bị bức nhận văn hóa phương Tây, người Việt vẫn tiếp thu và tiếp biến các giá trị
văn hóa nhân loại để làm giàu cho văn hóa của mình. Chỉ trong vòng có hai thập
kỷ (từ 1925 đến 1945), các thế hệ họa sĩ của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông
Dương đã tiếp thu nghệ thuật tạo hình phương Tây để đặt nền móng cho mỹ thuật
Việt Nam hôm nay, vừa có tính hiện đại, vừa có tính dân tộc.
Do khuôn khổ của bài
khảo cứu nên còn những kiệt tác cũng rất đáng tự hào của mỹ thuật Việt Nam chưa
được đề cập như kiến trúc và điêu khắc đình làng của các ngôi đình làng tiêu biểu
Tây Đằng, Chu Quyến, Đình Bảng…; các ngôi chùa Tây Phương, Bút Tháp…; nhà thờ
đá Phát Diệm…; đặc biệt là nghệ thuật kiến trúc tháp Chăm, mỹ thuật cố đô Huế,
mỹ thuật giai đoạn hiện đại…
Hơn nữa, trong các kiệt
tác mỹ thuật tiêu biểu còn rất nhiều vấn đề còn ẩn chứa, đòi hỏi chúng ta cần
tiếp tục khám phá và giải mã.
Nguyễn Văn Cương
(Bài đã đăng trên T/c VHNT số 6/2010)
TÀI LIỆU
THAM KHẢO CHÍNH
1.
Nguyễn Phi Hoanh (1970): Lược sử
mỹ thuật Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.
2.
Trang Thanh Hiền: “Tượng A-di-đà chùa Phật Tích - những giả thiết”, http://daitangkinhvietnam.org/lich-su-phat-giao/phat-giao-viet-nam/1244-tng-a-di-a-chua-pht-tich-va-nhng-gi-thit.html
3.
Trần Ngọc Thêm (2001): Tìm về bản sắc văn
hóa Việt Nam, Nxb Tp Hồ Chí Minh. Tp HCM.
4.
Chu Quang Trứ (1999): Mỹ thuật Lý Trần – Mỹ thuật
Phật giáo, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
5.
Lê Văn Siêu: “Ý
nghĩa hình vẽ trên bề mặt trống đồng Ngọc Lũ”, http://www.hugle.net/bi-an-cua-pho-tuong-phat-chua-but-thap/
6.
Trịnh Quang Vũ (2009): Lược sử mỹ thuật Việt
Nam, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
[1] Xem Lê Văn
Siêu “Việt Nam Văn minh sử”: http://tusach.thuvienkhoahoc.com/wiki/
[2]
Trong bài minh văn khắc
trên tấm bia “Vạn Phúc Đại Thiền tự bi” niên hiệu Chính Hòa năm thứ 7 (1687) hiện
dựng trước Nhà tổ của chùa, có đoạn viết “Vua thứ ba triều Lý, năm Long Thụy
Thái Bình 4 (tức năm 1057) cất lên cây tháp quí cao nghìn trượng, lại dựng lập
pho tượng mình vàng cao sáu xích…”
[3]
Căn cứ vào phong cách và hoa tiết của hoa văn, có ý kiến cho rằng bệ tượng đã
được làm lại ở đời Lê. Đến khi phục chế pho tượng năm 1959 đã phát hiện bệ tượng
bị thiếu đi một khối cầu. Căn cứ vào đó có thể xác định chiều cao pho tượng có
thể thêm 60 cm nữa. (Theo Trang Thanh Hiền)
[4] Thế kiết già
có hai loại: kiết già toàn phần và bán kiết già. Kiết già toàn phần là lộ 2
lòng bàn chân trên đùi, còn gọi là thế hàng
ma. Bán kiết già chỉ lộ một lòng bàn chân trái hoặc phải, còn gọi là: hàng ma lộ bàn chân phải và hàng ma lộ
bàn chân trái. Áo phủ toàn bộ phần đùi nên khó xác định là nhân vật ngồi kiết
già hay bán kiết già. Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới. Nxb Đà Nẵng 1997.
[5] Năm 1947,
chùa Phật Tích bị Pháp phá hủy, đầu pho tượng A-di-đà bị gãy. Đến 1956-57 đầu
tượng được phục chế theo tư liệu ảnh chụp lưu trữ tại Viện Viễn đông Bác cổ.
[6]
Trên bệ tượng ghi: Nam Đông Giao, Thọ Nam – Trương tiên sinh – phụng khắc (tạm
hiểu: Nam Đông Giao là địa chỉ, Thọ Nam là tên hiệu, Trương là họ, tiên sinh là
bậc trí giả, phụng khắc là phụng mệnh trời đất dựng tượng để thờ); cũng có ý kiến
cho rằng người phụng khắc là người bỏ tiền ra để thuê thợ khắc tượng, rồi công
đức pho tượng cho chùa.
[7]
Thống kê trong Từ điển văn học (Nxb KHXH, Hà Nội, 1983-1984), trong 95 mục từ
tác phẩm văn học Việt Nam thì có 69 tác phẩm thơ và 26 tác phẩm văn xuôi, tức
là thơ chiếm 72,6 % ( trong số 26 mục từ văn xuôi có rất nhiều tác phẩm thuộc
thể loại hịch, chèo, tuồng… là những thể loại mang đậm chất thơ). Dẫn theo Trần
Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt
Nam, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 2001, tr. 289.
[8] Trần Ngọc
Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam,
Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 2001, tr. 75.
( http://huc.edu.vn )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét